phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất mà còn là một phương pháp duy nhất để sản xuất những con người phát triển toàn diện nữa” [29, tr.668]. Như vậy, C.Mác đề cập đến nội dung giáo dục một cách toàn diện, bao gồm: giáo dục thể lực, trí lực, khoa học kỹ thuật tổng hợp và giáo dục gắn liền với lao động sản xuất, tức là nội dung giáo dục bao gồm các mặt: đức, trí, thể, mỹ và giáo dục nghề nghiệp, đồng thời, đã chứng minh một cách khoa học rằng, sự phát triển toàn diện, phát triển mọi khả năng tiềm tàng của con người nhờ giáo dục và đào tạo là yếu tố quyết định sự phát triển xã hội: “Việc kết hợp giữa lao động sản xuất được trả công, giáo dục trí lực, giáo dục thể lực và giáo dục kỹ thuật tổng hợp sẽ nâng giai cấp công nhân lên cao hơn nhiều so với trình độ của giai cấp công nhân quý tộc và tư sản” [28, tr.263].
Quan điểm giáo dục toàn diện của C.Mác đã nêu trên, chính là phương pháp luận, là cơ sở lý luận quan trọng để xác định nội dung giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực hiện nay. Chúng ta có thể nêu một số nội dung giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực bao gồm:
Thứ nhất, đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, để người học có khả năng thực hành một nghề nhất định. Đây là nội dung chủ yếu nhất.
Thứ hai, đào tạo ý thức tổ chức, tác phong lao động công nghiệp, tinh thần lao động sáng tạo.
Thứ ba, đào tạo phẩm chất đạo đức, trung thực, sống có lý tưởng.
Các nội dung trên phải được tiến hành đồng thời và thường xuyên, thông qua nhiều hình thức hoạt động giáo dục và đào tạo của các cơ sở đào tạo.
2.1.2.3. Phương thức giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực
- Về phương pháp giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực
Giáo dục theo nghĩa chung là hình thức học tập, theo đó, kiến thức, kỹ năng và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động, đều có thể
Có thể bạn quan tâm!
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Giáo Dục Và Đào Tạo Nghề Trong Phát Triển Nguồn Nhân Lực
- Khái Quát Kết Quả Chủ Yếu Của Các Công Trình Đã Tổng Quan Và Những Vấn Đề Luận Án Cần Tập Trung Giải Quyết
- Khái Niệm Giáo Dục Và Đào Tạo Nghề Trong Phát Triển Nguồn Nhân Lực
- Giáo Dục Và Đào Tạo Nghề Góp Phần Làm Thay Đổi Cơ Cấu Lao Động Xã Hội Theo Hướng Phù Hợp; Nâng Cao Năng Suất Lao Động Xã Hội Và Nâng Cao Đời
- Tác Động Bởi Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Và Kinh Tế Thị Trường
- Những Thành Tựu Về Giáo Dục Và Đào Tạo Nghề Trong Phát Triển Nguồn Nhân Lực Ở Nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào Hiện Nay
Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.
được xem là có tính giáo dục. Giáo dục nghề nghiệp là một hình thức giáo dục chú trọng vào đào tạo thực hành và trực tiếp một nghề nhất định.
Trong giáo dục và đào tạo nghề hiện nay, các quốc gia vẫn thường áp dụng một số phương pháp, như: Phương pháp giáo dục lý thuyết, phương pháp giáo dục thực hành và phương pháp giáo dục tích hợp. Tuy nhiên, với sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức, công nghệ thông tin và truyền thông, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã dẫn đến những thay đổi nhanh chóng yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của người lao động tại nơi làm việc; mô hình, phương pháp giáo dục và đào tạo nghề đã và đang được thay đổi ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó đặc biệt là việc áp dụng phương pháp giáo dục mới (phương pháp giáo dục tích cực, mở và giáo dục trực tuyến) trong giáo dục và đào tạo nghề để đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động học nghề và tạo việc làm là xu hướng chung của các quốc gia trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa và tiếp cận với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Việc tổ chức quá trình đào tạo hết sức linh hoạt giúp cho người học trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp có cơ hội học tập theo nhu cầu, điều kiện và nhịp độ của mình. Họ có thể học trọn vẹn một khóa học tập trung trong một thời gian nhất định để lấy văn bằng chứng chỉ; cũng có thể học một phần của nghề để đi làm, khi điều kiện cho phép họ có thể quay lại học tiếp phần nghề khác..., cho đến khi tích lũy đầy đủ các mô-đun hoặc tín chỉ để được nhận văn bằng chứng chỉ mong muốn.
- Về hình thức giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực
Trong lịch sử, hầu hết các hoạt động giáo dục và đào tạo nghề đều diễn ra trong lớp học hoặc ngay tại nơi hỗ trợ việc làm. Đến nay, trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư với xu thế công nghệ biến đổi và phát triển nhanh chóng trên khắp thế giới, đời sống sinh hoạt con người cũng phải thay đổi công nghệ và thiết bị thường xuyên. Do đó, người lao động cũng phải thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng những kỹ năng mới nhằm phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ.
Ở một số nước đi đầu trong phát triển giáo dục và đào tạo nghề, như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức,... đã có chính sách đầu tư phát triển nguồn nhân lực qua đào tạo nghề; đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động với các hình thức giáo dục và đào
tạo nghề, như: Đào tạo mới và đào tạo lại; đào tạo chuyển đổi tại doanh nghiệp; kết hợp giữa giáo dục phổ cập và dạy nghề; đào tạo tại cơ sở đào tạo; đào tạo chuyên biệt,... Từ đó có thể thấy, phần lớn các nước trên thế giới đi đầu trong phát triển giáo dục và đào tạo nghề đã áp dụng hai hình thức cơ bản, đó là đào tạo chính quy (tập trung và không tập trung) và đào tạo thường xuyên.
Tóm lại, phương thức giáo dục và đào tạo nghề phải kết hợp giảng dạy lý thuyết với rèn luyện kỹ năng thực hành để giúp người học có khả năng hành nghề và phát triển nghề nghiệp theo yêu cầu của từng công việc, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động hiện tại và tương lai.
2.1.2.4. Cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề trong phát triển nguồn nhân lực
Cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học nói chung, cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề nói riêng là tất cả các phương tiện vật chất được huy động vào việc giảng dạy, học tập và các hoạt động mang tính giáo dục khác để đạt được mục đích giáo dục.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục và đào tạo nghề là yếu tố hết sức quan trọng, tác động trực tiếp lên chất lượng đào tạo tương ứng với mỗi nghề dù đơn giản hay phức tạp cũng cần phải có các máy móc, trang thiết bị chuyên dùng phục vụ giảng dạy và học tập. Trang thiết bị giáo dục và đào tạo nghề giúp cho học viên có điều kiện thực hành để hoàn thành kỹ năng sản xuất. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục và đào tạo nghề càng tốt, càng hiện đại bao nhiêu, theo sát máy móc phục vụ cho sản xuất bao nhiêu thì người học có thể thích ứng, vận dụng nhanh chóng vào quá trình sản xuất trong doanh nghiệp bấy nhiêu.
Cơ sở vật chất và thiết bị dạy và học bao gồm các thiết bị dùng chung, các thiết bị trực quan, các thiết bị thực nghiệm bộ môn, các thiết bị nghe nhìn và các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho việc dạy và học. Thiết bị dạy học được sản xuất, cung cấp hàng loạt, đồng bộ theo những tiêu chuẩn kỹ thuật xác định của quốc tế hoặc trong nước là các thiết bị dạy học chính quy. Ngoài ra còn có các thiết bị dạy học không chính quy do giáo viên và học sinh tự làm hoặc sưu tầm, tận dụng cũng góp phần không nhỏ trong việc dạy học và dạy nghề nói riêng.
Trong giáo dục và đào tạo nghề, thiết bị dạy nghề phải đảm bảo các yêu cầu: tính khoa học (mức độ chuẩn xác trong việc phản ánh hiện thực), tính sư phạm (sự phù hợp với các yêu cầu về mặt sư phạm như độ rò, kích thước, màu sắc, dễ sử dụng, phù hợp tâm lý người học), tính kinh tế (giá thành tương xứng với hiệu quả giáo dục và đào tạo nghề). Chất lượng của trang thiết bị, cơ sở vật chất đòi hỏi phải theo kịp tốc độ đổi mới hiện đại hóa của máy móc thiết bị sản xuất.
Bởi vậy, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học nói chung, cũng như dạy nghề nói riêng, vừa là phương tiện của việc giảng dạy, là công cụ của luyện tập vừa là đối tượng của nhận thức. Nó là một nhân tố không thể thiếu trong cấu trúc toàn vẹn của quá trình giáo dục và đào tạo. Từ nhận thức nghề nghiệp, kiến thức nghề nghiệp thu nhận được, muốn có tay nghề phải thông qua thực hành, việc thực hành từ rèn luyện các thao tác cơ bản đến luyện tập kỹ năng nghề nghiệp phải thông qua công cụ, mà công cụ trong thực hành nghề chính là thiết bị dạy học. Không có thiết bị dạy học thì không thể có kỹ năng nghề nghiệp được.
2.2. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỀ TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Khẳng định vai trò, tầm quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, Ph.Ăngghen viết:
Các cuộc cách mạng tư sản trước đây đòi hỏi các trường đại học chỉ đào tạo ra các trạng sư làm nguyên liệu tốt nhất để hình thành nên những nhà hoạt động chính trị của chúng; ngoài đòi hỏi đó, sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm lấy việc quản lý không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa, và ở đây cần đến những kiến thức vững chắc... [30, tr.613-614].
Hiện nay, với vị trí là một ưu tiên quốc gia, giáo dục và đào tạo có vai trò là nền tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Để có thể giành được thắng lợi trong cuộc cạnh tranh giữa các nền kinh tế thì nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố quan trọng nhất, bởi vì, chính con người sáng tạo ra khoa học - kỹ
thuật và là người vận hành kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất. Nhưng để có được những con người có khả năng vận hành kỹ thuật hiện đại trong sản xuất thì phải có quá trình giáo dục và đào tạo, trong đó bao gồm cả giáo dục và đào tạo nghề. Như vậy, giáo dục và đào tạo nghề có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể là phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu sản xuất của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Có thể trình bày khái quát một số vai trò căn bản của giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực như sau:
2.2.1. Giáo dục và đào tạo nghề góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Nhận thức một cách sâu sắc vai trò giáo dục và đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã chỉ rò: “Nhà trường không những phải truyền bá những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản nói chung, mà còn phải là một công cụ truyền bá ảnh hưởng về tư tưởng, về tổ chức và giáo dục của giai cấp vô sản... Kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục với lao động sản xuất” [22, tr.118-119].
V.I.Lênin cho rằng, khi cách mạng mới thành công, bước đầu phải củng cố chính quyền thì nhiệm vụ của công tác giáo dục là tuyên truyền và giáo dục về tư tưởng, chính trị là chủ yếu. Đến khi cách mạng bước sang giai đoạn mới, xây dựng đất nước thì nhiệm vụ của công tác giáo dục cũng phải có sự thay đổi theo cho phù hợp. Sự thay đổi thể hiện ở chỗ: công tác giáo dục và đào tạo phải luôn gắn liền, bám sát với thực tiễn cuộc sống, giáo dục và đào tạo phải trở thành đòn bẩy, công cụ, thành nguồn nội sinh bên trong của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Cuối năm 1920, khi nhận xét bản “Đề cương báo cáo về giáo dục” của Crúpxcaia, V.I.Lênin viết: “... đặt thành nhiệm vụ phải thi hành một cách vô điều kiện: chuyển ngay lập tức sang giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hay nói đúng hơn là thực hiện ngay lập tức một số những bước đi tới giáo dục kỹ thuật tổng hợp có thể làm ngay bây giờ được...” [23, tr.283], tức là bất cứ trong hoàn cảnh nào, cần phải mau chóng bước sang giáo dục kỹ thuật tổng hợp... để mang lại cho người học một tầm nhìn kỹ thuật tổng hợp và các tri thức cơ bản ban đầu của giáo dục kỹ thuật
tổng hợp... Tư tưởng này thực hiện trong thực tế, xuất phát từ nguyên lý giáo dục kết hợp với lao động sản xuất do C.Mác và Ph.Ăngghen tổng kết thời kỳ đầu cách mạng công nghiệp. V.I.Lênin và các nhà giáo dục Nga đã đưa lên thành nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở nước Nga, chỉ đạo việc tổ chức nhà trường và tiến hành hoạt động giáo dục, đào tạo. Từ đó, tất cả các trường phổ thông đều mang tính chất giáo dục lao động và giáo dục kỹ thuật tổng hợp.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định vai trò to lớn của giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục và đào tạo lao động và giáo dục kỹ thuật tổng hợp nói riêng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội và sự tác động trở lại của phát triển kinh tế - xã hội đối với giáo dục và đào tạo; đồng thời, khẳng định ý nghĩa lớn lao và vai trò quyết định của giáo dục và đào tạo, trong đó có giáo dục và đào tạo nghề đối với việc phát triển con người - nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những quan điểm ấy có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo của các nước xã hội chủ nghĩa và đặc biệt có ý nghĩa thiết thực đối với những nước thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Lào, Việt Nam hiện nay.
Theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được đề ra tại Đại hội XI (2021) của Đảng NDCM Lào, đến năm 2030 nước CHDCND Lào sẽ thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển [110, tr.53], có tiền đề vững chắc cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đây là thách thức to lớn đối với giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục và đào tạo nghề nói riêng, đòi hỏi giáo dục và đào tạo nghề phải đi trước một bước để chuẩn bị nguồn nhân lực cho đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững, cần phải: áp dụng khoa học - công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở tiên tiến, hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mà động lực quan trọng nhất là nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực được đầu tư phát triển, có chuyên môn, kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm và năng lực sáng tạo. Năng lực này chỉ đạt được thông qua giáo dục và đào tạo, tích lũy kinh nghiệm trong quá trình làm việc; việc tích lũy kinh nghiệm cũng chỉ có thể có được thông qua giáo dục và đào tạo. Như vậy, có thể thấy, vai trò quyết định của giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục và
đào tạo nghề nói riêng trong việc phát triển năng lực con người. Nhờ có giáo dục và đào tạo nghề, người lao động nâng cao được kiến thức cũng như kỹ năng nghề của bản thân mình.
Vai trò của giáo dục và đào tạo nghề đối với phát triển nguồn nhân lực được thể hiện thông qua nhu cầu phát triển của kinh tế. Nhu cầu của nền kinh tế đòi hỏi phải phát triển đội ngũ lao động có chuyên môn, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cao trên các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Quá trình CNH, HĐH sẽ dài hay ngắn, ngoài các yếu tố về cơ chế, chính sách và thể chế thì còn phụ thuộc vào năng lực của đội ngũ lao động kỹ thuật này. Đó là nhu cầu khách quan của nền kinh tế, đòi hỏi các nước phải đầu tư cho giáo dục và đào tạo nghề, để từ đó mới có thể có được nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước.
Trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, đòi hỏi quy mô và cơ cấu giáo dục và đào tạo nghề, qua đó, quy mô và cơ cấu nhân lực kỹ thuật khác nhau. Nếu ở thời kỳ phát triển thấp, cơ cấu giáo dục và đào tạo theo trật tự ưu tiên là: Giáo dục phổ thông - Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục đại học (Cơ cấu nhân lực sẽ là: lao động phổ thông - công nhân kỹ thuật bậc thấp và bậc trung - lao động kỹ thuật bậc cao và lao động quản lý); thì ở thời kỳ nền kinh tế phát triển cao, cơ cấu trên sẽ là: Giáo dục đại học - Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục phổ thông (và cơ cấu nhân lực sẽ là: lao động kỹ thuật bậc cao và lao động quản lý - công nhân kỹ thuật bậc trung và bậc thấp - lao động phổ thông). Như vậy, có thể thấy, hiện nay, giáo dục và đào tạo nghề chính là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao, tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2.2.2. Giáo dục và đào tạo nghề có vai trò thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ lao động, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động
Hội nhập quốc tế mang lại sự hợp tác và bên cạnh đó là sự cạnh tranh gay gắt, khốc liệt giữa các nước và giữa các khu vực kinh tế, doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh hay giữa các quốc gia. Những người có trình độ chuyên môn, năng lực nghề nghiệp thấp, kỹ năng nghề kém, hoặc không có nghề, thường khó cạnh
tranh với những người có trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề cao và họ chỉ tiếp cận được những công việc có thu nhập thấp. Vì thế, sớm hay muộn, những người có trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề kém cũng sẽ bị đào thải ra khỏi thị trường lao động. Điều đó, bắt buộc họ phải nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề, năng lực của bản thân và hiệu quả nhất là thông qua quá trình giáo dục và đào tạo nghề.
Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Việc mở cửa thị trường lao động tạo ra sự dịch chuyển lao động giữa các nước, một mặt, đòi hỏi các quốc gia phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình; mặt khác, đòi hỏi người lao động phải có năng lực cạnh tranh. Người lao động phải thường xuyên cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp của mình, để đáp ứng sự thay đổi của kỹ thuật sản xuất, nếu không, họ sẽ bị đào thải ra khỏi thị trường lao động.
Vai trò của giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực xuất phát từ khía cạnh lợi ích cá nhân của con người. Cá nhân đầu tư vào giáo dục và đào tạo nghề nhằm tích lũy những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, điều đó có thể mang lại lợi ích lâu dài cho họ và là nhân tố quyết định sự phát triển ổn định và bền vững. Chính sự đầu tư về giáo dục và đào tạo nghề, nhìn dưới góc độ xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, do đó, nó cũng mang lại lợi ích về kinh tế quốc dân, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Nhà kinh tế học người Mỹ Garry Becker cho rằng: Học vấn và kỹ năng nghề càng cao, thu nhập càng tăng và ngược lại [67]. Khảo sát của Viện Nghiên cứu Khoa học dạy nghề Việt Nam cũng cho thấy: Tỷ lệ thất nghiệp của những người qua đào tạo nghề thấp hơn nhiều so với lao động phổ thông, thậm chí, thấp hơn cả tỷ lệ thất nghiệp của những người tốt nghiệp đại học. Từ đó, chúng ta thấy vai trò của giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực cũng như tạo động lực để mỗi xã hội đầu tư vào giáo dục, đặc biệt là giáo dục và đào tạo nghề.
Trình độ của đội ngũ lao động trong nước được tăng lên tiến gần đến tiêu chuẩn thế giới, góp phần tạo ra lợi thế cạnh tranh (giữa Lào với các nước trong khu vực và các nước trên toàn thế giới). Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động, những người học vấn thấp, kỹ năng nghề thấp hoặc không có