những phẩm chất đạo đức, tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang, sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
- Về phát triển nguồn nhân lực
Toàn bộ lịch sử loài người gắn chặt với sự phát triển của lao động sản xuất. Thông qua lao động, con người, như một thực thể sống đã tách ra khỏi thế giới động vật, tự giải phóng mình khỏi sự tồn tại động vật. Muốn duy trì và phát triển, xã hội nhất thiết phải thực hiện chức năng giáo dục và đào tạo. C.Mác đã chỉ ra rằng: “Muốn cải tạo bản tính chung của con người để làm cho nó có được kiến thức và những thói quen khéo léo trong một ngành lao động nhất định, nghĩa là muốn cho nó trở thành một sức lao động phát triển và đặc thù, thì cần phải có một trình độ học vấn hay giáo dục nào đó” [31, tr.285].
Tùy theo từng quốc gia, từng giai đoạn cụ thể, phát triển nguồn nhân lực có mục tiêu chiến lược và chính sách cụ thể khác nhau. Trong nhiều trường hợp, nó được hiểu như các hoạt động giáo dục - đào tạo và phát triển.
Do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau nên có nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển nguồn nhân lực. Theo UNESCO: Phát triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước - phát triển nguồn nhân lực là phát triển kỹ năng lao động và thích ứng với yêu cầu về việc làm. Quan niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO): Phát triển nguồn nhân lực là phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân.
Liên Hợp quốc sử dụng chỉ số phát triển con người (HDI) là thước đo tổng hợp về sự phát triển con người trên ba phương diện: sức khỏe, tri thức và thu nhập. HDI có giá trị nằm trong khoảng từ 0 đến 1. HDI đạt tối đa bằng 1 thể hiện trình độ phát triển con người cao nhất; HDI tối thiểu bằng 0 thể hiện xã hội không có sự phát triển mang tính nhân văn. HDI được sử dụng làm thước đo chung để so sánh sự phát triển con người và nhân lực của các quốc gia. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới cũng thường dùng chỉ số HDI để đánh giá mức độ nhất định về phát triển nhân
lực của quốc gia. Tuy nhiên, chỉ số HDI chỉ áp dụng để tính cho một địa phương, vùng, quốc gia, không thể sử dụng HDI để đánh giá mức độ phát triển nguồn nhân lực của một ngành, một doanh nghiệp.
Phát triển nguồn nhân lực là một vấn đề thu hút được sự quan tâm không chỉ của các tổ chức quốc tế mà còn của các quốc gia trên thế giới. Các quốc gia dân tộc, dù là nước lớn hay nước nhỏ, đều phải quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực, mà chiến lược giáo dục và đào tạo là nền tảng cơ bản, là ưu tiên hàng đầu. Do vậy, có thể khẳng định rằng, sự nghiệp phát triển của một đất nước không thể thành công, nếu không quan tâm đúng mức đến phát triển nguồn nhân lực để có được nguồn nhân lực bảo đảm chất lượng xứng tầm.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Nguồn Nhân Lực Và Phát Triển Nguồn Nhân Lực
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Giáo Dục Và Đào Tạo Nghề Trong Phát Triển Nguồn Nhân Lực
- Khái Quát Kết Quả Chủ Yếu Của Các Công Trình Đã Tổng Quan Và Những Vấn Đề Luận Án Cần Tập Trung Giải Quyết
- Phương Thức Giáo Dục Và Đào Tạo Nghề Trong Phát Triển Nguồn Nhân Lực
- Giáo Dục Và Đào Tạo Nghề Góp Phần Làm Thay Đổi Cơ Cấu Lao Động Xã Hội Theo Hướng Phù Hợp; Nâng Cao Năng Suất Lao Động Xã Hội Và Nâng Cao Đời
- Tác Động Bởi Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Và Kinh Tế Thị Trường
Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.
Có thể nhận thấy, khái niệm phát triển nguồn nhân lực rất rộng và có sự thay đổi, mở rộng tùy theo cách tiếp cận. Tổng hợp các nghiên cứu gần đây về khái niệm phát triển nguồn nhân lực, tác giả luận án cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực là quá trình biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng hợp lý hơn để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đó là quá trình gia tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng trên các mặt: thể lực, trí lực, kỹ năng và tinh thần cùng với sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực.
2.1.1.3. Khái niệm giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực
Giáo dục và đào tạo là khâu quan trọng quyết định trong phát triển nguồn nhân lực. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định tầm quan trọng của giáo dục trong việc xây dựng một xã hội mới, đó là “Muốn thay đổi những điều kiện xã hội phải có một chế độ giáo dục thích hợp” [29, tr.771]. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong kho tàng tư tưởng giáo dục của Người, giáo dục lao động là một bộ phận hợp thành khăng khít và giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Trong bài “Học tập không mỏi, cải tiến không ngừng” Người viết: “Muốn cải tiến kỹ thuật, phải biết kỹ thuật. Muốn cải tiến tổ chức lao động, cũng phải biết phương pháp tổ chức và có kinh nghiệm tổ chức. Về mặt này và mặt kia, hiện nay chúng ta đều còn kém. Cho nên phải “học, học nữa, học mãi”, như Lênin đã dạy” [35, tr.527]. Khi còn sống và hoạt động lãnh đạo cách mạng Lào, Chủ tịch Cayxon PHOMVIHAN đã từng nói: “Bất kỳ một xã hội nào muốn tồn tại phải lo lắng đến
phát triển giáo dục, phải quan tâm nhiều đến giáo dục, đào tạo con người phù hợp với xã hội đó” [93, tr.293]. Vận dụng sáng tạo và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Cayxon PHOMVIHAN về giáo dục, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, Đảng NDCM Lào đã hết sức coi trọng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo và phát triển con người, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Đảng khẳng định: “Trong điều kiện khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và là nhân tố quyết định sự phát triển của thế giới ngày nay, giáo dục và đào tạo càng có vai trò quyết định, quan trọng hàng đầu” [104, tr.40].
Giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục và đào tạo nghề đối với phát triển nguồn nhân lực là công việc phải được tiến hành có hệ thống, cơ bản, lâu dài, rất khó khăn, phải kiên quyết thực hiện tốt.
Từ khái niệm giáo dục và đào tạo nghề và khái niệm phát triển nguồn nhân lực đã trình bày ở trên, trong luận án này, tác giả đưa ra quan niệm về giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực như sau: Giáo dục và đào tạo nghề trong phát triểu nguồn nhân lực là quá trình đào tạo chuyên môn kỹ thuật, tay nghề, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp và đạo đức nghề nghiệp cho người lao động nhằm phát triển nguồn nhân lực có số lượng, chất lượng cao và cơ cấu phù hợp, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.2. Chủ thể, nội dung, phương thức và điều kiện vật chất đảm bảo cho giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực
2.1.2.1. Chủ thể thực hiện giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực
Chủ thể thực hiện giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực, bao gồm: Một là, nhà trường, nòng cốt là đội ngũ giáo viên; Hai là, các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh; Ba là, bản thân người lao động. Mỗi chủ thể có vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể trong phát triển nguồn nhân lực dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Một là, nhà trường - cơ sở giáo dục và đào tạo nghề
Giáo dục hướng tới mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách học sinh với những phẩm chất về kiến thức, kỹ năng, thái độ. Ðạt được mục tiêu đó bằng tác
động giáo dục của môi trường xã hội, gia đình, nhà trường, trong đó, nhà trường có vai trò quyết định, vì ở đó, quá trình giáo dục được thực hiện một cách hệ thống bởi các yếu tố xác định: nguồn lực đào tạo; mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục. Hệ thống đó được vận hành, phát triển bền vững nhờ động lực được tạo ra bởi tương tác hoạt động dạy và học. Nói theo chủ thể hoạt động thì đó là tương tác hoạt động giữa giáo viên và học viên. Bản chất tương tác đó là vai trò quyết định của hoạt động dạy đối với hoạt động học và cũng là nhấn mạnh vai trò quyết định của giáo viên đối với chất lượng giáo dục.
Mặc dù nội dung, hình thức, phương pháp sư phạm của giáo viên ngày nay đã có nhiều thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội loài người nói chung, của khoa học kỹ thuật nói riêng, nhưng vai trò của họ không thay đổi. Do vậy, giáo viên là chủ thể, có vai trò trực tiếp, quan trọng nhất và quyết định nhất trong chất lượng giáo dục và đào tạo.
Đội ngũ giáo viên giáo dục và đào tạo nghề là tập hợp những người đảm nhận công tác giáo dục và dạy học trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có đầy đủ tiêu chuẩn đạo đức, chuyên môn và nghiệp vụ quy định.
Trước hết, đội ngũ giáo viên giáo dục và đào tạo nghề là tập hợp những người thực hiện các hoạt động dạy học và giáo dục trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Đó là những người trực tiếp tham gia vào thực hiện nhiệm vụ hình thành và phát triển các phẩm chất nhân cách cho học sinh ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Đội ngũ giáo viên giáo dục và đào tạo nghề là những người có đầy đủ tiêu chuẩn đạo đức, chuyên môn và nghiệp vụ theo quy định như: phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; lý lịch bản thân rò ràng.
Đội ngũ giáo viên giáo dục và đào tạo nghề tại các cơ sở giáo dục là “lực lượng sản xuất đặc biệt tạo ra sản phẩm là nguồn nhân lực”, đồng thời, là chủ thể định hướng kiến tạo sự phát triển bền vững của xã hội.
Trong nhà trường, cơ sở giáo dục và đào tạo nghề, ngoài đội ngũ giáo viên là chủ thể trực tiếp nhất và quan trọng nhất của giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực còn có sự tham gia của đội ngũ cán bộ quản lý - với tư cách là những người làm công tác lãnh đạo, quản lý, thực hiện vai trò giám sát kiểm tra,
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình dạy - học, huấn luyện, thực tập tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực, lực lượng lao động có tay nghề đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.
Hai là, các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh
Với phương châm giáo dục và đào tạo là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển tới một xã hội tốt đẹp, là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ, hợp tác và tôn trọng lẫn nhau, vì vậy, không chỉ Lào mà nhiều nước trên thế giới, các Chính phủ đều coi giáo dục là ưu tiên hàng đầu, hay quốc sách hàng đầu. Với các chức năng đó, giáo dục không thể tách rời đời sống xã hội, giáo dục là sự nghiệp chung của toàn xã hội.
Xã hội hóa giáo dục là làm cho hoạt động giáo dục vốn là hoạt động có tính chuyên môn nghiệp vụ của một thể chế xã hội (ngành giáo dục và đào tạo) trở thành một hoạt động rộng lớn, sâu sắc, toàn diện, thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật). Từ đó, xã hội hóa giáo dục và đào tạo nghề chính là công tác xã hội hóa giáo dục được cụ thể hóa vào một lĩnh vực giáo dục cụ thể - giáo dục nghề nghiệp, nhằm huy động toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp.
Với yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là lao động có tay nghề trong các doanh nghiệp, đang trở thành một trong những yêu cầu rất quan trọng. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là trách nhiệm của cả các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp, trong đó, doanh nghiệp là nhà đầu tư, người định hướng nền giáo dục và đào tạo nghề và tham gia vào trong quá trình soạn thảo chương trình, tạo cơ sở cho sinh viên đến thực tập. Như vậy, đào tạo nghề không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, nhà trường mà còn là trách nhiệm của chính doanh nghiệp.
Kinh nghiệm phát triển giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực tại một số nước trên thế giới cho thấy rằng họ đã khá thành công trong hợp tác đào tạo giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và kinh doanh, cụ thể như [64]:
Tại Canada, Chính phủ khuyến khích hệ thống giáo dục nghề, mở tầm nhìn ra thế giới, tìm những cơ hội học tập mới và quốc tế hóa trong giáo dục và đào tạo nghề. Doanh nghiệp và nhà tuyển dụng tại Canada tham gia vào hội đồng trường, ban cố vấn chương trình đào tạo. Hệ thống dạy nghề với mục tiêu và các chuẩn nghề nghiệp do doanh nghiệp quyết định đóng vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp ở Canada.
Tại Xingapo, ngoài việc khuyến khích và tập trung nguồn lực khá lớn cho giáo dục nghề nghiệp, học sinh, sinh viên được thực hành trong môi trường như thực tế tại doanh nghiệp. Chính phủ nước này có chủ trương tăng cường hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các trường nghề trở thành người hợp tác chính yếu của các doanh nghiệp.
Đức và Úc là hai quốc gia có phương pháp học nghề ưu việt. Học viên tại các trường nghề được học với chuyên gia, thực hành trong môi trường công việc ngay trong quá trình học tập với nhiều ngành nghề phong phú, đa dạng. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp có sự phối hợp quan hệ đối tác tốt với các doanh nghiệp nhằm giúp cho học viên có kinh nghiệm nghề thực tế để thuận lợi trong quá trình tuyển dụng.
Qua phân tích về kinh nghiệm phát triển giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực của một số nước trên thế giới, có thể thấy, vai trò chủ thể của các doanh nghiệp và hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo nghề là rất quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực ở các nước này.
Từ đó có thể thấy, chỉ khi nào xã hội hóa mạnh mẽ được lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp và thúc đẩy được sự tham gia của khu vực tư nhân (các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và kinh doanh), với tư cách là chìa khóa cho sự phát triển, thì lúc đó chất lượng giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực mới được nâng cao.
Ba là, bản thân người lao động
Người lao động, hay nguồn nhân lực vừa là đối tượng vừa là chủ thể. Với tư cách là đối tượng, họ chịu sự tác động trực tiếp của các chủ thể khác trong quá trình thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục và đào tạo. Họ là đối tượng từ việc tuyển chọn, giáo dục và đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp, sử dụng, quản lý
đến thực hiện chính sách, đãi ngộ. Với tư cách là chủ thể, họ là lực lượng trực tiếp xây dựng, phát triển bản thân. Đặc biệt, từng người và cả nguồn nhân lực phải tích cực, tự giác lao động sáng tạo, nhiệt tình và ý thức trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ, phấn đấu để hoàn thiện bản thân, hoàn thành nhiệm vụ, lao động với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao nhất; đồng thời, phát huy vai trò “đầu tàu, đóng góp xứng đáng vào phát triển nguồn nhân lực ở địa phương, lĩnh vực, đơn vị và toàn xã hội. Vai trò, tư cách đối tượng và chủ thể của nguồn nhân lực là thống nhất. Vì thế, khi xác định và thực thi giải pháp phát triển nguồn nhân lực, phải đồng thời tạo điều kiện, cơ chế, chính sách động viên, khuyến khích, khơi dậy từng người nỗ lực phấn đấu vươn lên. Trong quá trình phát triển giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực, tự thân người lao động phải ý thức về tầm quan trọng của việc tự đào tạo. Một cách hình tượng, đội ngũ giáo viên, nhà trường, xã hội và doanh nghiệp trang bị cho người lao động phương pháp, cung cấp đầy đủ những công cụ, cơ hội thì chính bản thân họ phải biết vận dụng phương pháp, sử dụng công cụ một cách phù hợp sáng tạo và tận dụng cơ hội để tạo ra năng lực lao động của chính mình.
2.1.2.2. Mục tiêu, nội dung giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực
- Mục tiêu giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực
Giáo dục và đào tạo nghề là một mắt xích hữu cơ, là nhân tố vô cùng quan trọng và có tiềm năng to lớn trong việc cung cấp lực lượng lao động với quy mô, cơ cấu phù hợp và có chất lượng góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Cũng như các phân hệ khác trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục và
đào tạo nghề cũng có hai mục tiêu: Mục tiêu hệ thống và mục tiêu nhân cách.
Trong khi mục tiêu hệ thống của giáo dục và đào tạo là “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, giáo dục và đào tạo nghề đặt trọng tâm mục tiêu hệ thống của mình vào việc “đào tạo nhân lực”, đó là đào tạo lực lượng lao động có chuyên môn, nghiệp vụ ở trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng theo cơ cấu ngành nghề hợp lý và thái độ nghề nghiệp phù hợp để tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Trong việc thực hiện mục tiêu nhân cách chung, giáo dục và đào tạo nghề đồng thời thực hiện mục tiêu nhân cách của riêng mình. Mục tiêu nhân cách riêng của giáo dục và đào tạo nghề được thể hiện ở hệ thống các năng lực bao hàm các kiến thức, kỹ năng và thái độ mà người tốt nghiệp của hệ thống giáo dục nghề nghiệp phải đạt được theo các tiêu chuẩn đào tạo ở trình độ tương ứng từng ngành nghề hoặc từng lĩnh vực ngành nghề, đáp ứng yêu cầu của sử dụng lao động, thể hiện ở các tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp, các tiêu chuẩn kỹ thuật nghề, hay gọi chung là các tiêu chuẩn nghề trong từng ngành nghề hoặc từng lĩnh vực ngành nghề. Tiêu chuẩn nghề là đòi hỏi khách quan của lao động nghề nghiệp và việc làm đối với người lao động tại vị trí làm việc; còn tiêu chuẩn đào tạo lại mang tính “dung hợp”, do giáo dục nghề nghiệp không chỉ thỏa mãn các nhu cầu hết sức đa dạng, phong phú và phức tạp của các loại “khách hàng trực tiếp”, sử dụng lao động khác nhau mà còn phải thỏa mãn nhu cầu của xã hội, chế độ chính trị, cũng như nhu cầu đa dạng của bản thân người học và gia đình... Hơn nữa, có nhiều loại tiêu chuẩn tùy thuộc vào phạm vi áp dụng rộng hẹp, cao thấp khác nhau của chúng, như: tiêu chuẩn thế giới, khu vực, quốc gia, tiêu chuẩn ngành, địa phương, doanh nghiệp...
Như vậy, giáo dục và đào tạo nghề, cũng như giáo dục đại học, phải thực hiện cả mục tiêu hệ thống và mục tiêu nhân cách trong sự đa dạng, phức tạp và linh hoạt theo yêu cầu thực tế so với giáo dục phổ thông.
Có thể hiểu, mục tiêu trực tiếp của giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực là nhằm đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng thực hành cơ bản của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc; nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ được đào tạo đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Nội dung giáo dục và đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực
Trong quá trình nghiên cứu các quy luật phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thấy được tầm quan trọng của đào tạo nghề cho người lao động, cho công nhân. Khi bàn về nền giáo dục tương lai, C.Mác khẳng định rằng: “Nền giáo dục tương lai, nó sẽ kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục đối với tất cả những trẻ em trên một lứa tuổi nào đấy, coi đó không chỉ là một