Một là, giáo dục đạo đức quân nhân giúp củng cố niềm tin, lý tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp cho mỗi quân nhân.
Niềm tin, lý tưởng cách mạng là nhân sinh quan cao cả, là chuẩn mực hàng đầu của người quân nhân cách mạng, trạng thái hoàn hảo nhất mà người ta mong muốn đạt tới, và thôi thúc con người hành động để thỏa mãn, nhu cầu lợi ích, “là cơ sở lựa chọn giá trị, là mục tiêu cao nhất của hành vi đạo đức và đánh giá đạo đức” [50, tr.82]. Là người quân nhân, ngay từ lúc họ tham gia quân ngũ là đã xác định được lý tưởng của mình, nhưng để vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ trong lý tưởng đó thì chỉ có thông qua con đường giáo dục và tự giáo dục người quân nhân mới lĩnh hội được những tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức và các giá trị đạo đức mới: đó là những kiến thức cơ bản cốt lõi nhất về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, đường lối chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng; bản chất, âm mưu thủ đoạn chống phá của kẻ thù; quy chế giáo dục, đào tạo của Nhà trường, chức trách nhiệm vụ của quân nhân, của học viên, trước yêu cầu xây dựng Nhà trường vững mạnh toàn diện; cùng với đó là các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của Đảng, quân đội và Nhà trường; tình hình kinh tế, chính trị của đất nước, tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường tới đạo đức lối sống của quân nhân, khơi dậy tinh thần vượt khó, ý chí vươn lên trong mọi hoàn cảnh của học viên… Từ việc bổ sung, trang bị những tri thức đạo đức đó làm cho niềm tin của họ ngày càng được cũng cố vững chắc và đạt tới lý tưởng cao đẹp.
Bên cạnh, củng cố niềm tin, lý tưởng, những tri thức đạo đức sẽ góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp cho mỗi quân nhân: Điều này thể hiện ý thức hệ của người quân nhân cách mạng, khi được trang bị những kiến thức đạo đức sẽ nâng cao tầm nhận thức, tính kiên định, vững vàng, niềm tin vững chắc vào mục tiêu, con đường xã hội chủ nghĩa; thái độ bình tĩnh, tự tin trong xử lý tình huống, ý thức trách nhiệm của bản thân trước vận mệnh của giai cấp, dân tộc; khả năng phân tích những vấn đề chính trị - xã hội, khả năng dự báo xu hướng vận động của thực tiễn từ đó đưa ra những phương án tối ưu để giải quyết vấn đề. Hơn
nữa, đó còn lòng vị tha, nhân ái, lối sống trong sạch, lành mạnh, lòng yêu nước nồng nàn, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc và nhân dân, lối sống có văn hoá.
Hai là, Giáo dục đạo đức quân nhân trực tiếp nâng cao sức mạnh tinh thần của mỗi quân nhân và góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội.
ĐĐQN là một bộ phận cấu thành nhân tố tinh thần trong sức mạnh chiến đấu của quân đội. Thử thách cao nhất đối với mỗi quân nhân là trong tiến hành chiến tranh và thực hiện nhiệm vụ có thể có sự mất mát, sự hy sinh. Để có tinh thần, dũng khí vượt qua mọi khó khăn thử thách, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì dân, vì nước, người quân nhân cách mạng phải thường xuyên được giáo dục, học tập, rèn luyện đạo đức. Song song với đó là phải tích cực đấu tranh loại bỏ những tư tưởng tiêu cực, làm xói mòn, băng hoại các giá trị đạo đức quân nhân. V.I.Lênin chỉ rõ: “Niềm tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những gian khổ chưa từng thấy” [24, tr.147]. Sự nhận thức sâu sắc và thẩm thấu trách nhiệm, nghĩa vụ và danh dự quân nhân sẽ trở thành sức mạnh tinh thần tinh thần to lớn giúp cho mỗi quân nhân vững vàng vượt qua những khó khăn, thử thách khắc nghiệt, V.I.Lênin cũng đã khẳng định: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường” [24, tr.147]. Cho nên, giáo dục và bồi dưỡng các giá trị đạo đức quân nhân theo hướng tích cực là động lực thôi thúc sự cố gắng, phát huy nhân tố tinh thần đạo đức của mỗi quân nhân, giúp người quân nhân giác ngộ được mục đích, lý tưởng rõ ràng. Qua đó, hình thành ở họ sức mạnh tinh thần nhân văn cao cả, có thể chiến thắng kẻ thù và vượt qua mọi khó khăn thử thách trong thực hiện nhiệm vụ và trong cuộc sống hàng ngày.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn hóa luôn diễn ra hết sức quyết liệt, phức tạp. Các thế lực thù địch luôn có âm mưu “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội, sự phát triển tân tiến của các loại vũ khí công nghệ cao... GDĐĐQN cho học viên để giúp họ có tri thức, kỹ
Có thể bạn quan tâm!
- Giáo dục đạo đức quân nhân cho học viên trường Sĩ quan Lục quân 2 trong tình hình hiện nay - 1
- Giáo dục đạo đức quân nhân cho học viên trường Sĩ quan Lục quân 2 trong tình hình hiện nay - 2
- Vai Trò Của Giáo Dục Đạo Đức Quân Nhân Cho Học Viên Trường Sĩ Quan Lục Quân 2.
- Khiêm Tốn, Giản Dị, Ham Học Hỏi, Cầu Tiến Bộ
- Thực Trạng Giáo Dục Đạo Đức Quân Nhân Cho Học Viên Trường Sĩ Quan Lục Quân 2 Hiện Nay
- Những Hạn Chế Trong Công Tác Giáo Dục Đạo Đức Quân Nhân Cho Học Viên Trường Sĩ Quan Lục Quân 2 Và Nguyên Nhân Của Nó
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
năng, bản lĩnh toàn diện, làm cơ sở nhằm nhận diện và đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và ứng phó với tính hiện đại của các loại phương tiện chiến tranh. Thông qua đó, góp phần nâng cao chất lượng chính trị, sức chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao của quân đội.
Ba là, giáo dục đạo đức quân nhân góp phần điều chỉnh thái độ, hành vi bản lĩnh chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, tiêu chí để đánh giá chính xác đạo đức con người là ở hành động, việc làm, ở cách đối nhân xử thế. Theo đó, người quân nhân nói chung và học viên SQLQ2 nói riêng, đạo đức được thể hiện trong ba mối quan hệ: với người, với việc, với tự mình. Đối với mình có nghiêm khắc với bản thân hay không? thái độ của mình với mọi người, trong gia đình, họ hàng, đồng chí, đồng đội, cấp trên, cấp dưới, quần chúng nhân dân, với Đảng, Nhà nước, đối với kẻ thù như thế nào? Mình có hết lòng vì công việc hay không? Những quan hệ đó, đặt ra yêu cầu đối với mỗi quân nhân phải điều chỉnh thái độ, hành vi ứng xử phù hợp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. GDĐĐQN góp phần tích cực trong cung cấp nội dung, định hướng, hướng dẫn cho mỗi quân nhân tự giác thực hiện những hành vi đạo đức mang tính nhân văn cao cả: với Đảng tuyệt đối tin tưởng, trung thành, một lòng, một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân; với đồng chí đồng đội đoàn kết thương yêu nhau như anh em ruột thịt; với nhân dân nặng nghĩa tình sâu “đi dân mến, ở dân thương”; với bạn bè quốc tế, đoàn kết, thủy chung, giúp đỡ nhau trên tinh thần quốc tế cao cả.
Bên cạnh điều chỉnh hành vi, thái độ theo hướng tích cực, GDĐĐQN còn góp phần hoàn thiện nhân cách, phương pháp, tác phong của học viên. Trong thực tế, nhân cách, phương pháp, tác phong làm việc của mỗi người là tổng hòa của các yếu tố đạo đức và tài năng, phẩm chất và năng lực, thể hiện bản lĩnh chính trị, tính tự lập, tự chủ, tinh thần năng động, sáng tạo của họ trong cuộc sống,… được hình thành thông qua quá trình học tập, tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người trong thực tiễn. Điều đó có nghĩa, nhân cách, phương pháp tác phong công tác của người quân nhân chỉ được hình thành, phát triển thông qua giáo dục và bằng con đường giáo dục trong một môi trường sư phạm nhất định. Chính trong quá trình giáo dục, mỗi
học viên sẽ học hỏi, tích lũy được những tri thức, kinh nghiệm, đồng thời tự kiểm tra những gì mà mình đã học được để không ngừng tự điều chỉnh, bổ sung, từng bước phát triển, hoàn thiện các phẩm chất, nhân cách, tác phong cần thiết của người sĩ quan cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” [29, tr.383]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển” [13, tr.156]. Nói cách khác, GDĐĐQN không chỉ hướng đến hình thành, phát triển ở học viên những giá trị đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trong sạch, lành mạnh; những giá trị tốt đẹp trong truyền thống đạo đức dân tộc, quân đội và những phẩm chất nhân cách cần thiết của người sĩ quan quân đội. Mà quan trọng hơn, đó còn là điều kiện, môi trường để mỗi học viên tự hoàn thiện phương pháp tác phong công tác theo chức trách, nhiệm vụ được giao khi ra trường.
Bốn là, giáo dục đạo đức quân nhân khắc phục sự suy giảm, xuống cấp về đạo đức, lối sống của quân nhân.
Giáo dục ĐĐQN cho học viên là yêu cầu khách quan, nhiệm vụ chính trị quan trọng, trực tiếp góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, sĩ quan trong quân đội vững mạnh. Thông qua công tác GDĐĐQN học viên sẽ được trang bị những kiến thức cơ bản về lý luận chính trị, đạo đức, lối sống, kỹ năng ứng xử theo chuẩn mực, quy định của Đảng và quân đội. Sự vững vàng về tri thức, về phẩm chất chính trị, sẽ tạo nền tảng cho học viên hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập trong Nhà trường, hoàn thành tốt các nhiệm vụ trên cương vị là người sĩ quan tương lai. Đồng thời tạo ra kháng thể với những biểu hiện tiêu cực trong đời sống xã hội, làm ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống của người quân nhân.
Hiện nay, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, sự mở cửa, hội nhập quốc tế, bên cạnh những cơ hội thì
mặt trái của nó cũng đưa lại nhiều thách thức, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội làm “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn” [14, tr.185]. Trong xã hội nói chung và trong quân đội nói riêng, xuất hiện một số bộ phận cá nhân sống ích kỷ, cơ hội, vụ lợi cá nhân, chạy theo đồng tiền, vi phạm pháp luật, kỷ luật quân đội phải xử lý… điều đó đã và đang làm ảnh hưởng đến đạo đức của dân tộc, đạo đức trong môi trường quân đội. Do đó, giáo dục tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng; các giá trị chuẩn mực ĐĐQN, Trung với Đảng, hiếu với dân, yêu nước xã hội chủ nghĩa, lòng dũng cảm, sáng tạo, chịu đựng gian khổ khó khăn, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, sự trung thực, thẳng thắn, tình đồng chí, đồng đội, dân chủ, kỷ luật,… có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Giúp cho học viên nâng cao nhận thức, xây dựng động cơ, tự định hướng tu dưỡng, rèn luyện phát triển đạo đức theo hướng tiến bộ cách mạng. Đó cũng là biện pháp tốt nhất để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống của quân nhân, cũng như đấu tranh loại bỏ những hiện tượng tiêu cực và sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng đạo đức, lối sống hiện nay.
1.3. Nội dung giáo dục đạo đạo đức quân nhân cho học viên Trường Sĩ quan Lục quân 2 hiện nay
Đạo đức quân nhân được hình thành, phát triển trên nền tảng các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; cùng với đó là thực tiễn xây dựng, bảo vệ và phát triển của quân đội, của đất nước Việt Nam qua các thời kỳ. Nên, ĐĐQN có nội dung rất phong phú, sâu sắc, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Mọi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện bồi dưỡng các phẩm chất; trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nội dung GDĐĐQN cho học viên Trường SQLQ2, ngoài nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, cần hướng tới các giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống nói chung và của người quân nhân cách mạng nói riêng. Đó là những
giá trị thể hiện tinh thần cao đẹp của một quân đội cách mạng có mục tiêu, lý tưởng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo đó, GDĐĐQN cho học viên Trường SQLQ2 hiện nay là cần tập trung vào các nội dung sau.
1.3.1. Trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân
Đây là giá trị đạo đức quân nhân có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, đồng thời là phẩm chất truyền thống tốt đẹp của quân đội ta “là chuẩn mực đạo đức bao trùm của con người Việt Nam, là định hướng chính trị đạo đức lớn nhất cho mỗi người, là khát vọng vươn lên tự hoàn thiện mình của tất cả chúng ta theo ngọn cờ tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” [11, tr.53]. Sự khác biệt của quân đội nhân dân Việt Nam với quân đội các nước trên thế giới đó là quân đội của dân, do dân và vì dân. Quân đội đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và vì quyền lợi của nhân dân đã đưa đến những thắng lợi vẽ vang cho dân tộc. Chính vì vậy, cần giáo dục: Lòng trung thành với mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, sẵn sàng thực hiện các nghị quyết, do Đảng đề ra; giáo dục bản chất truyền thống, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho học viên, tinh thần học tập, rèn đức luyện tài, cống hiến sức mình cho Đảng, nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó; hiếu với dân, hết lòng phục vụ nhân dân, vì quyền lợi của nhân dân, không làm phương hại đến nhân dân, tôn trọng nhân dân, thấm nhuần Mười lời thề danh dự của quân nhân và Mười hai điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân, thực hiện đầy đủ mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đem lại lợi ích, chính đáng cho nhân dân.
1.3.2. Có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội
Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội chính là niềm tin, là nêu cao lý tưởng, lập trường của người quân nhân cách mạng trước mọi khó khăn gian khổ đều tin tưởng vào chế độ, vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn; sẵn sàng chiến đấu bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững định hướng XHCN. Đối với người quân nhân cách mạng, yêu nước XHCN còn là thể hiện việc quán triệt nhất quán các nguyên tắc, quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các đường lối quan điểm của Đảng trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Cho nên, cần giáo dục học viên nắm và nhận thức
tính đúng đắn đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là tạo niềm tin cho học viên vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tính tất thắng của sự nghiệp cách mạng. Giúp họ không giao động, bi quan hay chùn bước trước khó khăn, gian khổ, luôn giữ vững lập trường, lý tưởng để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Xây dựng cho học viên nhận thức rõ về bản chất, thực trạng, nguyên nhân, hệ quả của những suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, qua đó giúp cho mỗi học viên tự giác nâng cao nhận thức, tích cực đấu tranh ngăn chặn những tiêu cực xâm nhập vào môi trường văn hóa quân sự. Làm cho mọi quân nhân thấm nhuần quan điểm sống “hy sinh phấn đấu cho lý tưởng cộng sản”, là chuẩn mực đạo đức cơ bản hàng đầu của một người quân nhân cách mạng
1.3.3. Có lòng dũng cảm, sáng tạo, chịu đựng gian khổ khó khăn, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Dũng cảm là không được nhút nhát, phải can đảm, dám làm những việc đáng làm, dám đánh những trận đáng đánh” [33, tr.479]. Dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, chịu đựng gian khổ vừa là truyền thống quý báu của quân đội ta, vừa là giá trị đạo đức quân nhân cơ bản giúp người quân nhân đương đầu vượt qua mọi khó khăn thử thách. Trong chiến tranh, lòng dũng cảm đã trở thành sức mạnh nội lực, giúp người chiến sĩ vượt qua mọi hiểm nguy, sự mất mát, hy sinh, nhưng họ không nao núng, chùn bước, quyết tâm chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Ngày nay, tình hình đất nước với nhiều thách thức (dịch bệnh, biến đổi khí hậu, môi trường ô nhiễm, tham nhũng, lãng phí, các vấn nạn xã hội,… ). Cùng với đó là các biến tấu của tình hình thế giới, các thế lực thù địch vẫn luôn thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” thì tinh thần dũng cảm, vượt khó khăn gian khổ cùng với đó là mưu trí, sáng tạo để đương đầu với hoàn cảnh là phẩm chất vô cùng quan trọng, cần thiết và không hề thiếu. Vấn đề là làm thế nào để người học viên hiểu và thực hành lòng dũng cảm cho đúng với yêu cầu đặt ra của Nhà trường, quân đội. Do đó, cần giáo dục quân nhân thấm nhuần ý chí dũng cảm, chấp nhận mọi khó khăn gian khổ, phục tùng mệnh lệnh cấp trên, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Giáo dục sự mưu trí, sáng tạo, khả năng nắm bắt, xử lý tình huống trong học tập, công tác, kiên quyết đấu tranh khắc phục biểu hiện tư tưởng thụ động, ỷ lại, trung bình chủ nghĩa. Giáo dục, cho quân nhân nhận thấy được thực tiễn chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của cha ông ta trong chiến tranh, còn trong thời bình là đương đầu, nhận và thực hiện tốt các nhiệm vụ dù ở đồng bằng, hay những nơi xa xôi, hẻo lánh, vùng biên giới hải đảo, thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần. Đó chính là tinh thần sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc trong mọi hoàn cảnh.
1.3.4. Có tinh thần đoàn kết, dân chủ, kỷ luật
Đoàn kết, dân chủ, kỷ luật là những tiêu chuẩn hàng đầu của quân đội nói chung và mỗi người quân nhân cách mạng nói riêng: theo Đại từ điển tiếng Việt “đoàn kết là kết thành một khối, thống nhất ý chí, không mâu thuẫn chống đối nhau” [67, tr.645], Sinh thời Chủ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Đoàn kết là sức mạnh nhất của ta. Phải đoàn kết nội bộ, giữa cán bộ và chiến sỹ” [32, tr.306], Người thường nhắc nhở: “Các chú cần phải đoàn kết hơn nữa, đoàn kết chặt chẽ giữa chiến sỹ với nhau, giữa cán bộ với nhau, giữa chiến sỹ và cán bộ, giữa quân và dân. Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi” [31, tr.396]. Do đó, trong bất kỳ hoàn cảnh nào đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh trong chiến đấu, sinh hoạt học tập và trong cuộc sống. Dân chủ làm cho mỗi quân nhân biết tôn trọng lẫn nhau và tập thể quân nhân luôn trong sạch, công bằng và bình đẳng. Kỷ luật là sức mạnh của quân đội, tính tự giác nghiêm minh tạo cho quân đội có sự thống nhất cao cả về ý chí và hành động. Chính vì vậy, cần giáo dục cho học viên sự gắn bó, tin tưởng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các quân nhân, dẫn chứng cho họ hiểu đoàn kết có ý nghĩa cực kỳ to lớn, sẽ tạo thành sức mạnh tinh thần, vượt qua mọi trở ngại để hoàn thành các nhiệm vụ. Có thái độ tôn trọng lẫn nhau, cấp trên biết tôn trọng lắng nghe ý kiến cấp dưới, thực hiện tốt chế độ phê bình và tự phê bình thường xuyên, tạo bầu không khí dân chủ thoải mái, thực hiện dân chủ trên mọi phương diện, chính trị, quân sự, hậu cần, đời sống. Giáo dục học viên thái độ, hành vi chấp hành nghiêm Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, hệ