Việc Giải Thích Giao Dịch Dân Sự Phải Căn Cứ Vào Ý Muốn Đích Thực Của Các Bên Khi Xác Lập Giao Dịch Và Mục Đích Của Giao Dịch Đó.


luật) đã có những quy định cụ thể về vấn đề này. Về cơ bản, các nguyên tắc của giải thích hợp đồng được quy định trong các Bộ luật này chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Bộ dân luật của Pháp cho nên trong các quy định cũng thể hiện nền tảng học thuyết ý chí thực để xây dựng và phát triển. Điều 691 Bộ dân luật Bắc kỳ quy định và Điều 732 Bộ dân luật Trung kỳ quy định cụ thể: “khám phá ra ý chí chung của những người kết ước hơn là nghĩa đen từng chữ”.

Trong giai đoạn sau năm 1945, sau thời gian đầu tạm sử dụng một số luật lệ hiện hành ở Bắc – Trung – Nam cho đến lúc ban hành những bộ luật duy nhất cho toàn quốc điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực tư, và trải qua một giai đoạn dài áp dụng các quy định khác nhau phù hợp với đặc điểm kinh tế của đất nước, do các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, cho đến khi bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời thì vấn đề giải thích hợp đồng mới lại được nhắc đến và quy định tại Điều 125 Giải thích giao dịch dân sự và Điều 408 Giải thích hợp đồng dân sự

“Điều 125 Giải thích giao dịch dân sự:

1. Việc giải thích giao dịch dân sự phải căn cứ vào ý muốn đích thực của các bên khi xác lập giao dịch và mục đích của giao dịch đó.

2. Trong trường hợp giao dịch dân sự có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch, theo tập quán nơi giao dịch được xác lập, nếu bên mạnh thế về kinh tế đưa vào giao dịch dân sự nội dung bất lợi cho bên yếu thế về kinh tế, thì khi giải thích giao dịch dân sự phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế.”

“Điều 408. Giải thích hợp đồng dân sự:

1- khi một hợp đồng có điều khoản không rõ ràng, thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải thích điều khoản đó.


2. Khi một điều khoản của hợp đồng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa, thì phải chọn nghĩa nào làm cho điều khoản đó khi thực hiện có lợi nhất cho các bên.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

3. Khi một hợp đồng có ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với tính chất của hợp đồng.

4. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu, thì phải được giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng.

Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành - 6

5. Khi hợp đồng thiếu một số điều khoản không thuộc nội dung chủ yếu, thì có thể bổ sung theo tập quán đối với loại hợp đồng đó tại địa điểm giao kết hợp đồng.

6. Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ với nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng.

Có thể nhận thấy, việc quy định về các nguyên tắc giải thích hợp đồng tại điều 408 của Bộ luật dân sự 1995 còn mang tính tập trung liệt kê, và chưa thể hiện được rõ nền tảng học thuyết của quy định là xuất phát từ ý chí thực hay ý chí tuyên bố. Như tại quy định được xem là quy định chung tại Điều 135 (về mối quan hệ giữa Giải thích hợp đồng và giải thích giao dịch dân sự sẽ được phân tích cụ thể đối với Bộ luật dân sự 2005). Như vậy, liệu ta có thể coi Điều 135 là các quy định mang tính định hướng chung về nền tảng học thuyết phát triển cụ thể các nguyên tắc giải thích hợp đồng hay không? câu hỏi này dường như vẫn chưa có câu trả lời thích đáng vì hầu như các công trình nghiên cứu về hoạt động giải thích hợp đồng chủ yếu vẫn chỉ dừng lại xem xét các quy định tại Điều 408 và nhận xét tổng quan.


Đối với BLDS 2005, dường như đã kế thừa cách thức thể hiện tại Bộ luật dân sự 1995, và tất nhiên hạn chế của Bộ luật dân sự 1995 cũng chưa được giải quyết triệt để đối với quy định chung tại Điều 409 và mối liên hệ tưởng quan giữa Điều 126 và Điều 409. Cụ thể:

Điều126, Bộ luật dân sự 2005 quy định về giải thích giao dịch dân sự:

“1. Trong trường hợp giao dịch dân sự cụ thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:

a) Theo ý muốn đích thực của các bên khi xác lập giao dich;

b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;

c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập...”

Điều 409, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 quy định riêng cho giải thích hợp đồng:

“1. Khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải thích điều khoản đó;

2. Khi một điều khoản của hợp đồng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa thì phải chọn nghĩa nào làm cho điều khoản đó khi thực hiện có lợi nhất cho các bên.

3. Khi hợp đồng có ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì phải giải thích phù hợp nhất với tính chất của hợp đồng.

4. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu thì phải được giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng.

5. Khi hợp đồng thiếu một số điều khoản thì có thể bổ sung theo tập quán đối với loại hợp đồng đó tại địa điểm giao kết hợp đồng.


6. Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ với nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng.

7. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với ngôn từ sử dụng trong hợp đồng thì ý chí chung của các bên được dùng để giải thích hợp đồng.

8. Trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên yếu thế thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế.”

Như vậy, cũng gần như Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 cũng thể hiện vấn đề giải thích hợp đồng ở mối liên hệ tại 2 điều khoản, tuy nhiên cách thể hiện có vẻ sự thể hiện không được đồng nhất như chính cách thể hiện mối liên hệ giữa giao dịch dân sự và hợp đồng trong bộ luật này.

Sở dĩ nhận định ta Điều 126 cũng quy định về Giải thích hợp đồng (cũng như Điều 125 tại Bộ luật dân sự 1995) trên cơ sở suy luận Điều 126 thể hiện các nguyên tắc giải thích hợp đồng như là cái chung, còn quy định tại Điều 409 là cái riêng, nằm trong sự tương thuộc với giải thích giao dịch dân sự. Xuất phát của nhận định trên là tại Điều 121 của Bộ Luật dân sự 2005 quy định rõ: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (ở đây ta không bàn tới sự bất hợp lý của thuật ngữ “giao dịch dân sự” trong Bộ luật dân sự 2005 và sự thay thế đối với thuật ngữ “hành vi pháp lý – juridical acts hay còn được hiểu là giao dịch pháp lý” theo cách hiểu chung nhất hiện nay – sau đây thống nhất sử dụng thuật ngữ giao dịch dân sự). Mặc dù các nhà xây dựng Bộ luật dân sự 2005 đã quy định thêm trường hợp ngoại lệ đối với giải thích hợp đồng và giải thích di chúc tại


Khoản 2 của Điều 126, nghĩa là áp dụng nguyên tắc theo mối liên quan giữa quy định chung và quy định riêng (lex general và lex special theo truyền thống luật Civil law) từ đó giải thích hợp đồng sẽ được áp dụng các quy chế pháp lý riêng so với giải thích giao dịch dân sự. Nhưng vấn đề đặt ra là, nếu theo suy luận như vậy, ta có thể hiểu nếu không áp dụng được các nguyên tắc tại Điều 409 thì ta áp dụng các nguyên tắc tại Điều 129 (ví dụ như trường hợp xác định mục đích của giao dịch dân sự mà ở Điều 409 lại không quy định) hay không khi mà ngay tại Điều 129 cũng chưa thể hiện rõ mối liên hệ này mà lại thể hiện sự tách bạch như ở khoản 2 đó là việc giải thích đối với hợp đồng và di chúc lại được xem xét riêng. Mặt khác, nếu Điều 129 là cách thể hiện chung thì cũng phải đảm bảo yêu cầu thể hiện được sự đồng nhất các nguyên tắc đối với Điều 409, nhưng Điều 129 lại không thể hiện được điều này khi mà thiếu hụt hẳn một chức năng bổ sung lỗ hổng của giao dịch dân sự.

Tham khảo đối với cách thức thể hiện trong Bộ luật dân sự sửa đổi 2015, điểm khó hiểu đó vẫn chưa được khắc phục mà nó thể hiện càng bất cập hơn nếu ta phân tích theo mạch suy luận này khi quy định: “giao dịch dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này (hợp đồng và di chúc) thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây …”

Có thể thấy, việc quy định như vậy hạn chế ở chỗ, thứ nhất là việc thể hiện được tính đồng nhất giữa giao dịch pháp lý với quy định về hợp đồng nói chung, và thứ hai là quá trình xác định nền tảng học thuyết xuất phát cơ bản của chế định giải thích hợp đồng nói riêng.

Cùng với cách suy luận như trên, cách thể hiện hai điều khoản Điều 129 và Điều 409 ở mối quan hệ tương thuộc thì Bộ luật dân sự 2005 đã thể hiện sự


bất hợp lý khác của mình về mặt nguyên tắc xây dựng quy định, vì nếu theo như quy định tại Điều 126 đã thể hiện các nguyên tắc giải thích giao dịch dân sự dựa trên nền tảng học thuyết xác định ý chí đích thực khi quy định thứ tự áp dụng nguyên tắc đầu tiên đó là căn cứ theo ý muốn đích thực của các bên khi xác lập giao dịch, còn đối với quy định tại Điều 409 thì lại thể hiện cơ bản dựa trên sự pha trộn giữa các học thuyết.

Tuy nhiên, điểm bất đồng này có thể được nhìn nhận một cách dễ chấp nhận hơn nếu so sánh với một số diễn giải của một số luật gia khi ta có thể tìm thấy một số điểm đồng nhất không đáng kể trong vấn đề tương đồng trong chủ thuyết tại Điều 126 và Điều 409 của Bộ luật dân sự. Giáo sư Vũ Văn Mẫu cho rằng “Trong quá trình tìm kiếm ý chí của các bên đương sự, thẩm phán có thể đứng trước hai trường hợp tùy theo văn từ của khế ước minh bạch hay không...” [38,tr.260-261], theo đó, nhìn nhận theo cách hiểu này thì Khoản 1 của Điều 409, đã dẫn trường hợp khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải thích điều khoản đó, nếu hiểu theo cách diễn giải của Giáo sư Vũ Văn Mẫu thì ở đây điều khoản đã thể hiện hai trường hợp mà buộc phải xem xét khi giải thích hợp đồng, không thể bỏ qua đó là: thứ nhất, hợp đồng có điều khoản không rõ ràng tuy nhiên dựa vào ngôn từ minh bạch mà diễn giải (ý chí tuyên bố) và thứ hai, phải căn cứ vào ý chí chung của các bên; hai nguyên tắc được xem xét song song không tách rời nhau. Nếu đảm bảo cả 2 yếu tố trong giải quyết vấn đề như vậy thì quy định tại Điều 409 là có thể chấp nhận được và tạm coi như được xây dựng dựa trên nền tảng ý chí thực của các bên, nhưng điều này lại đặt ra vấn đề khác đó là lựa chọn cách thức tiếp cận nào trong trường hợp phát sinh mâu thuẫn hoặc xung đột giữa “ngôn từ của hợp đồng” với “ý chí


chung của các bên giao kết”, ở tầm bao quát hơn, câu trả lời nào cho việc lựa chọn chủ thuyết “ý chí thực chất” hay “sự biểu hiện bên ngoài của ý chí” là căn cứ giải thích hợp đồng được ưu tiên hơn. Mặc dù ở Khoản 7 tại Điều 409 cố vớt vát lại bằng cách quy định chọn ý chí chung của các bên dùng để giải thích hợp đồng, tuy nhiên nếu không xác định được ý chí chung dựa vào các yéu tố thể hiện ra ngoài thì phải dựa vào căn cứ nào để giải thích. Vì vậy, nếu chỉ đánh giá Điều 409 dựa trên nền tảng ý chí tuyên bố hay nền tảng ý chí thật sự sẽ là thiếu sót, vì nó có sự pha trộn không rõ ràng. Chính sự pha trộn mang tính tập hợp đó rất khó để phân loại và bao quát hết các nguyên tắc vì không thể phân loại theo bất cứ nhóm tính chất nào hoặc theo cách thức tiếp cận vấn đề như thế nào. Hệ quả của nó là áp dụng thứ tự ưu tiên như thế nào và cách thứ áp dụng dựa trên căn bản phương hướng tiếp cận ra sao trong từng trường cụ thể thế nào thì khó có thể xác định được.


Chương 2:

CÁC NGUYÊN TẮC CỦA GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG


2.1. GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG THEO Ý CHÍ ĐÍCH THỰC CỦA CÁC BÊN GIAO KẾT HỢP ĐỒNG

Hợp đồng được tạo lập bởi sự thống nhất ý chí của các bên và dựa trên cơ sở tự do ý chí. Khi thỏa thuận, các bên giao kết hợp đồng đương nhiên được xem là đã thể hiện mục đích khi tham gia của mình. Chính vì lý do này cho nên nhiều bộ luật của các nước cũng như các hiệp ước quốc tế về hợp đồng quy định khi giải thích hợp đồng thì yếu tố đầu tiên được xem xét đến là ý chí thực sự của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng. Ý chí này có thể có hoặc không thống nhất với sự thể hiện trong hợp đồng, tuy nhiên quá trình giải thích hợp đồng có thể xác định được ý muốn đích thực của các bên giao kết hợp đồng bằng nhiều cách thức khác nhau.

Quy định tại Điều 1156, mục V, Bộ Luật Dân sự Pháp: “Khi giải thích hợp đồng, cần phải hiều ý định chung của các bên hơn là xem xét nghĩa của từ ngữ”

Với cách thể hiện như vậy, dễ dàng nhận thấy học thuyết “ý chí” là tư tưởng nền tảng cho hoạt động giải thích hợp đồng của Bộ luật Dân sự Pháp. Và theo cách hiểu thông thường thì việc tìm ý chí chung thực chất là yếu tố được ưu tiên trong hoạt động giải thích hợp đồng.

Thống nhất với quan điểm này, nhiều ý kiến cho rằng, nguyên tắc ưu tiên đầu tiên cho sự giải thích hợp đồng là sự tìm ý chí của người tham gia giao kết hợp đồng, Vũ Văn Mẫu dẫn giải theo truyền thống pháp luật của Pháp cho rằng: “Chỉ riêng trong trường hợp không tìm được ý chí của các người kết ước thì các thẩm phán mới có thể dùng luật pháp, tục lệ hay nguyên tắc công bằng để giải

Xem tất cả 116 trang.

Ngày đăng: 20/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí