Chủ Thể Của Hoạt Động Giải Thích Hợp Đồng.


chất của hợp đồng, hay cụ thể hơn là không làm thay đổi ý chí của các bên tham gia giao kết hợp đồng.

Khái niệm trên đã hàm chứa những điểm cốt lõi nhất về giải thích hợp đồng, đó là:

- Đây là hoạt động nhằm xác định chính xác các nội dung của hợp đồng ví dụ như quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng, đối tượng, thời hạn thực hiện... , thông qua việc: thứ nhất là làm rõ nghĩa cho sự diễn đạt trong một hay nhiều nội dung của hợp đồng; thứ hai là bổ sung các thiếu sót trong một hay nhiều quy định của hợp đồng.

- Chủ thể của hoạt động giải thích hợp đồng là các thẩm phán hoặc các chủ thể khác tùy nền tài phán khác nhau (ví dụ như trọng tài viên ...).

- Đối tượng đặc trưng của hoạt động giải thích hợp đồng đó là xác định ý chí chung của các bên tham gia hợp đồng.

- Bản chất của hoạt động này là làm rõ nghĩa hay bổ sung các nội dung còn thiếu của hợp đồng, vì vậy thẩm phán không có quyền thay đổi nội dung của hợp đồng.

Một vấn đề nữa đó là, nhìn chung các khái niệm về giải thích hợp đồng tương đối thống nhất, vì chủ yếu là nhìn nhận hướng tới ngay chức năng và đối tượng của hoạt động đó,tuy quy định về các nguyên tắc cụ thể của hoạt động giải thích hợp đồng phát triển chủ yếu dựa trên các nền tảng học thuyết khác nhau về hợp đồng, vì vậy cách thức diễn đạt nội dung các nguyên tắc và thứ tự ưu tiên cũng có khác nhau.

1.1.2. Chủ thể của hoạt động Giải thích hợp đồng.

Đối với quy định của pháp luật Việt Nam, việc xác định chủ thể giải thích hợp đồng là không rõ ràng, các tác giả của Viện khoa học pháp lý chỉ chỉ dẫn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.


một cách chung chung: “Pháp luật không quy định cụ thể ai là người có trách nhiệm giải thích nội dung của giao dịch dân sự. Thông thường, trong trường hợp có sự hiểu không đúng về nội dung của giao dịch dân sự trước hết cần có sự bàn bạc thỏa thuận của các bên. Nếu các bên không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hoặc Tòa án quyết định” [31,tr.305], như vậy cách thức tiếp cận về chủ thể giải thích hợp đồng này khá tương đồng với cách thể hiện của các luật gia của Nga, theo Berezina thì “đó là một dạng đặc biệt của giải thích luật, được thực hiện bằng các phương pháp truyền thống của kỹ thuật pháp lý và các phương pháp xuất phát từ nội dung hợp đồng riêng biệt của những hoạt động pháp luật đặc thù của các bên trong hợp đồng, người đại diện của họ, cơ quan tòa án và các chủ thể pháp luật khác, theo hướng làm rõ nghĩa các điều khoản từng hợp đồng riêng biệt trong mục đích của việc thực hiện nó”[24,T.44]ư, với cách định nghĩa như vậy thì theo Berezina chủ thể của hoạt động giải thích hợp đồng trước hết thuộc về chính các bên trong hợp đồng, sau đó là người đại diện, cơ quan tòa án và các chủ thể pháp luật khác. Cũng cùng cách thức tiếp cận như vậy, một số luật gia của Việt Nam cũng có ý kiến cho rằng các vấn đề phát sinh yêu cầu giải thích hợp đồng cũng là một loại tranh chấp hợp đồng, vì vậy chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đồng thời cũng có thể giải thích hợp đồng [41, tr.32]. Tuy nhiên cách hiểu trên đây còn có một điểm khó hiểu, đó là nếu đánh giá hoạt động giải thích hợp đồng theo giai đoạn, là việc xác định ý chí, như vậy nếu giai đoạn thương lượng, hòa giải giữa các bên, hay theo cách xác định chủ thể giải thích hợp đồng đó là các bên trong hợp đồng, thì liệu nó có được coi là hoạt động giải thích hợp đồng nữa hay không khi mà sự thỏa thuận giữa các bên nhiều trường hợp đã làm thay đổi đi ý chí ban đầu muốn thể hiện, đặc biệt là đối với trường hợp không thể xác định

Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành - 3


được ranh giới giữa việc giữ nguyên nội dung của hợp đồng và không làm thay đổi ý chí của các bên, chỉ nhằm làm rõ nghĩa hay bổ sung lỗ hổng của hợp đồng.

Trong khi đó, theo cách thức quy định và cách hiểu của các luật gia truyền thống thì nhiều ý kiến cho rằng chủ thể của hoạt động của giải thích hợp đồng là các thẩm phán. Konrad Zeugert và Hein Koetz cho rằng Giải thích hợp đồng là Qui trình thực hiện nhiệm vụ của thẩm phán. TS Nguyễn Ngọc Khánh thì cho rằng: “Trên thực tế, không phải lúc nào nội dung hoặc điều khoản của hợp đồng cũng được thể hiện đầy đủ và rõ nghĩa. Khi đó Tòa án sẽ có nhiệm vụ làm sáng tỏ ý nghĩa và nội dung của hợp đồng các bên đã giao kết. Dạng hoạt động của Tòa án trong những trường hợp như vậy được gọi là giải thích hợp đồng”[28.tr126]. Còn theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu thì “khế ước có hiệu lực thúc buộc các người kết ước, các thẩm phán không có quyền thay đổi nội dung Khế ước, nhưng các thẩm phán có quyền giải thích khế ước để biết rõ nội dung ra sao vì nhiều khi các người kết ước không đồng quan điểm về vấn đề này phải nhờ thẩm phán giải quyết mối phân tranh’’ [38,tr.260] như vậy, chủ thể của hoạt động giải thích hợp đồng chỉ có thể là thẩm phán chứ không thể từ các bên trong hợp đồng.

Đối với quan điểm này cũng còn có hạn chế nhất định đó là nếu theo quy định Thẩm phán là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải thích hợp đồng thì hoạt động gặp bất lợi rất lớn nếu xem xét theo các giai đoạn giao kết hợp đồng, theo đó hoạt động này chỉ có nhiều ý nghĩa sau khi có tranh chấp nảy sinh từ hợp đồng xảy ra hoặc có yêu cầu của các bên giao kết sau khi thực hiện và phát hiện điểm thiếu sót hoặc bất hợp lý từ một hoặc các điều khoản của hợp đồng, trong khi đó yêu cầu giải thích hợp đồng xảy ra xuất phát từ bản chất hợp đồng đã xảy ra ngay từ thời điểm giao kết, bản thân hợp đồng đã xuất hiện lỗ hổng hoặc chứa


các điều khoản mập mờ không rõ nghĩa, như vậy, ngay từ giai đoạn yêu cầu, nếu gặp phải trường hợp như trên thì tòa án có thẩm quyền từ giai đoạn nào thì cần phải cân nhắc thật kỹ càng.

Như vậy, từ các nhận định trên, cách thức có phần hợp lý hiện nay để tiếp cận vấn đề chủ thể của hoạt động giải thích hợp đồng đó là nhìn nhận dưới góc độ các trường hợp hợp đồng cần phải giải thích cũng có một số đặc điểm tương đồng với tranh chấp hợp đồng (mặc dù không thể đồng nhất hợp đồng cần giải thích là một loại tranh chấp hợp đồng được vì hợp đồng cần giải thích không phát sinh từ hành vi vi phạm mà xuất phát trong nội dung của hợp đồng đó), theo đó chủ thể giải quyết tranh chấp hợp đồng cũng là chủ thể của hoạt động giải thích hợp đồng. Sở dĩ có thể nhận định như vậy vì các lý do, (1) xuất phát từ dẫn giải hợp đồng có điều khoản mập mờ hay có lỗ hổng dẫn tới cách hiểu và áp dụng sai trong thực tế, từ đó có bất đồng ý kiến giữa các bên tham gia giao kết (mặc dù các các bất đồng này không xuất phát từ vi phạm của các bên như tranh chấp thông thường) và do đó phát sinh yêu cầu giải thích hợp đồng từ một chủ thể độc lập có đủ khả năng (trong các trường hợp này khó có thể quy định do hai bên tự thương lượng, vì bản chất quá trình thương lượng không còn là hoạt động giải thích hợp đồng, quá trình thương lượng có thể đã làm thay đổi ý chí ban đầu của một hoặc cả hai bên tham gia hợp đồng) (2) đối với vấn đề hoạt động giải thích hợp đồng, khó có một hạn định bắt buộc nào trong việc xác định chủ thể có thẩm quyền giải thích đối với từng hợp đồng riêng rẽ, (3) thông thường chủ thể giải quyết tranh chấp có thể là thẩm phán (theo thủ tục tố tụng tại tòa án), trọng tài viên (giải quyết theo thủ tục trọng tài thương mại). Đối với những chủ thể như vậy thì các yêu cầu về chủ thể giải quyết tranh chấp hợp đồng cũng đã được


đảm bảo (về chuyên môn, trình độ, mức độ am hiểu trong lĩnh vực giải quyết ...), do đó cũng đáp ứng đầy đủ khả năng đối với vấn đề giải thích hợp đồng.

Như vậy có thể hiểu chủ thể có thẩm quyền giải quyết vấn đề giải thích hợp đồng hiện nay đó là thẩm phán hoặc trọng tài viên theo thủ tục tố tụng tư pháp hoặc giải quyết bởi trọng tài thương mại, tùy theo nội dung của từng hợp đồng và cách thức quy định của từng nền tài phán.

1.1.3. Chức năng của Giải thích hợp đồng

Như ta đã nhận xét thông qua khảo sát các khái niệm về giải thích hợp đồng thì có thể rút ra chức năng của hoạt động này bao gồm: thứ nhất, làm rõ nghĩa cho hợp đồng; thứ hai, bổ sung các nội dung còn thiếu của hợp đồng, nó xuất phát từ đối tượng giải quyết của vấn đề này đó là (1) các quy định của hợp đồng không rõ ràng, hoặc (2) hợp đồng quy định thiếu sót. Trong thực tiễn, trong các nền tài phán khác nhau lại có cách thức phân tách đối tượng hướng tới cần giải quyết của hoạt động giải thích hợp đồng một cách chi tiết cụ thể, phần lớn có thể chia ra làm các trường hợp cần áp dụng hoạt động giải thích hợp đồng và từ đó thể hiện rõ chức năng chính của hoạt động này đó là:

Thứ nhất, hợp đồng có nội dung mơ hồ, khó hiểu. Ở đây phải nhận định rõ, một hợp đồng trong bất cứ nền tài phán nào cũng cần được đòi hỏi phải thể hiện được những nội dung xác định để có thể thể hiện được ý chí của các bên và do đó cũng được sử dụng để có thể đáp ứng các yêu cầu cho hoạt động giải quyết tranh chấp, và ta hiểu nội dung của hợp đồng được biết đến như là các điều kiện của hợp đồng. Như vậy, thông thường trong các hợp đồng có các điều khoản quy định các nguyên tắc chung giữa các bên, trong đó buộc phải có các điều khoản cơ bản và có thể có các điều khoản thông thường, các điều khoản tùy nghi (điều khoản thông thường ở đây được hiểu trong mối tương quan với Điều khoản cơ


bản. Điều khoản cơ bản là điều khoản bắt buộc phải có, nếu thiếu thì hợp đồng không được coi là đã giao kết. Điều khoản thông thường là các điều khoản do các bên thỏa thuận nhưng các điều khoản này không bắt buộc phải có. Và khi phát sinh tranh chấp mà các bên không thỏa thuận thì áp dụng quy định của pháp luật để giải quyết). Nếu theo cách diễn giải trên, nội dung mơ hồ, không rõ ràng cần đến hoạt động giải thích hợp đồng nghĩa là các điều khoản của hợp đồng quy định không rõ ràng dẫn đến việc không thể hiện được ý chí của các bên tham gia giao kết hợp đồng hoặc không thể hiện được căn cứ để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đó. Giải pháp đối với trường hợp này là khác nhau tùy học thuyết phát triển của mỗi nền tài phán và thường được cụ thể hóa thành các nguyên tắc để áp dụng trong thực tiễn (các nguyên tắc này sẽ được phân tích cụ thể tại chương 2 của luận văn). Một hệ quả nữa để quy về đối tượng của hoạt động giải thích hợp đồng về nội dung mơ hồ hợp đồng đó là điều khoản của hợp đồng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Thực tế, các điều khoản này có thể thể hiện các nguyên tắc chung mà các bên phải tuân thủ hoặc các điều khoản xác lập quyền và nghĩa của các chủ thể, một điều khoản có nhiều cách hiểu có thể dẫn tới hệ quả là làm sai lệch đi cơ bản nội dung của toàn hợp đồng, như vậy, theo cách hiểu về cơ bản là làm sai lệch đi ý chí của các bên. Tuy nhiên, đối với trường hợp điều khoản được hiểu theo nhiều nghĩa này, hoạt động giải thích hợp đồng cần đặc biệt thận trọng, vì nếu lạm dụng các nguyên tắc dựa trên ý chí tuyên bố, có thể làm sai lệch đi bản chất của hoạt động giải thích hợp đồng, đó là yêu cầu đảm bảo không làm thay đổi nội dung của hợp đồng.

Thứ hai, hợp đồng tồn tại những lổ hổng cần được bổ sung. Đây là đối tượng khá đặc biệt của hoạt động giải thích hợp đồng, một hợp đồng cơ bản đảm bảo nội dung, thể hiện được ý chí của các bên, do đó có thể làm căn cứ để giải


quyết các tranh chấp. Trong thực tế, các hợp đồng khó có thể thể hiện đầy đủ nội dung hoặc điều kiện của chúng một cách lý tưởng như trong lý thuyết. Tuy nhiên, các nội dung cơ bản để thể hiện ý chí của các bên cũng đều được các nền tài phán đòi hỏi. Vì vậy, việc thiếu hụt quy định trong nội dung của hợp đồng chính là đối tượng của hoạt động giải thích hợp đồng trên. Đối với loại đối tượng này, thông thường vấn đề lớn được đặt ra sẽ là (1) khi nào các bên sử dụng các biện pháp giải thích hợp đồng để lấp “lỗ hổng” của hợp đồng; vấn đề (2) sử dụng biện pháp giải thích hợp đồng nào và sử dụng các biện pháp này như thế nào.

Đối với việc áp dụng nguyên tắc bổ sung điều khoản còn thiếu trong giải thích hợp đồng thì cần lưu ý đến 2 vấn đề. Thứ nhất, khi nào thì áp dụng nguyên tắc này; thứ hai, tiêu chuẩn và cách thức bổ sung các điều khoản còn thiếu trong quá trình giải thích hợp đồng.

Về vấn đề thứ nhất, đó là khi nào các bên sử dụng các biện pháp giải thích hợp đồng để bổ sung “lỗ hổng” của hợp đồng. Như ta đã phân biệt ở trên giữa các điều khoản cơ bản và các điều khoản thông thường, việc phân loại các điều khoản như trên có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực của hợp đồng vì thiếu các điều khoản cơ bản thì coi như hợp đồng chưa được giao kết, còn đối với các điều khoản thông thường thì có thể sẽ phải đặt ra vấn đề giải thích hợp đồng. Trong thực tiễn thì việc có “lỗ hổng” trong quy định của nội dung hợp đồng có thể là hệ quả trong sai sót trong bước soạn thảo hợp đồng vì nhiều lí do, có thể là do cẩu thả hoặc do các trường hợp các bên không ngờ tới khi thực hiện hợp đồng, một trường hợp có thể cân nhắc áp dụng bổ sung đó là trường hợp đối với xác định hợp đồng được định danh cụ thể và mang đầy đủ tính chất của một loại hợp đồng được quy định trong luật, tuy nhiên thực tiễn người soạn thảo có thể do hạn chế về kiến thức pháp lý về phần nội dung này hoặc sơ suất không quy định trong


hợp đồng dẫn tới thiếu sót. Ví dụ như hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng không quy định điều khoản các biện pháp nhằm bảo đảm giá trị sử dụng của tài sản thuê, hoặc hợp đồngthuê nhà không có điều khoản quy định nghĩa vụ sinh hoạt công cộng của bên thuê nhà…

So sánh với một số quan điểm về việc yêu cầu đối với việc sử dụng hoạt động giải thích hợp đồng để bổ sung cho lỗ hổng của hợp đồng, theo diễn giải của UNIDROIT thì yêu cầu đặt ra đối với chức năng này như sau: “Những điều khoản còn thiếu hoặc những chỗ trống trong hợp đồng phát sinh sau khi giao kết hợp đồng, nếu chưa được các bên điều chỉnh lại cho đúng trong toàn bộ hợp đồng, thì có thể là do họ không muốn giải quyết, hoặc do họ không thể ngờ đến những trường hợp này” [6, tr.70], có thể nhận thấy vấn đề chưa rõ ràng đặt ra theo cách diễn giải của UNIDROIT ở đây là căn cứ như vậy có đảm bảo yếu tố bản chất của hợp đồng hay không, cụm diễn giải “do họ không muốn giải quyết”, vậy thì có thể hiểu, những người tham gia giao kết hợp đồng đã xác định rõ vấn đề, biết nội dung mà họ không muốn giải quyết, do đó giải thích hợp đồng có làm thay đổi bản chất ý chí của các bên ban đầu và bản chất của hợp đồng đối với nội dung “không muốn giải quyết vấn đề” đó hay không? và do đó theo quy định thôgn thường thì các thẩm phán ở trường hợp này sẽ không áp dụng hoạt động giải thích hợp đồng để giải quyết vấn đề.

Về vấn đề thứ hai, tiêu chuẩn và cách thức bổ sung điều khoản. Đây là vấn đề thực tiễn đặt ra rất khó khăn cho các nhà làm luật và các chủ thể giải thích khi giải thích hợp đồng. Bổ sung làm sao để đảm bảo không thay đổi bản chất của hợp đồng và cũng đáp ứng được yêu cầu đầy đủ nội dung, UNIDROIT có đưa ra chỉ dẫn một cách khái quát, ta có thể hiểu tùy từng trường hợp cụ thể mà áp dụng tìm các yếu tố nội tại cũng như ngoại tại của hợp đồng.

Xem tất cả 116 trang.

Ngày đăng: 20/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí