Dịch Tễ Học Bệnh Trào Ngược Dạ Dày Thực Quản

chứng nhưng phản lớn chủng gây ra các triệu chứng ợ chưa, nóng rát sau xương ức, đau ngực, nuốt khó.... Viêm thực quan trào ngược là hiện tượng tổn thương thực quân gây ra do chất trào ngược.

1.2.2. Dịch tễ học bệnh trào ngược Dạ dày thực quản

Đây là bệnh lý phổ biến trên thế giới, ở Mỹ 10-20%, ở Thụy sĩ 5%, Phần Lan 27%-30%. Pháp 27.1%, Thụy Điển 25% [19] [20] [21]. Ở Châu Á GERD ít gặp

hơn, ở Nhật 16,3%, Dài Loan 5%, Ấn Độ 7.5%, Trung Quốc 0,5%, Malaysia 3%, Hàn Quốc và Dài Loan 3,4-9% [21] [22]. Tỷ lệ lưu hành của những triệu chứng trào ngược gia tăng hàng năm trung bình khoảng 5% ở Bắc Mỹ, 27% ở Châu Âu, ở Châu Á, một nghiên cứu từ Singapore cho thầy tu lệ hiện mắc của GERD đang gia tăng từ 5,5% ở năm 1994 tăng lên 10.4% ở năm 1999 [22] bệnh GERD trước đây không phổ biến ở Châu Á nhưng bảy giờ lại trở thành 1 bệnh quan trọng trong vùng [3]. Hai triệu chứng điển hình của GERD cũng gặp ở tỉ lệ cao trong dân số: ở Mỹ 44% người lớn có triệu chứng nóng rát ít nhất 1 lần trong 1 tháng, 14% có nóng rất ít nhất 1 lần mỗi tuần, và 7% có nông rất mỗi ngày [23].

Ở Việt Nam, theo thống kê của tác giả Lê Văn Dũng tiến hành tại khoa thăm dò chức năng bệnh viện Bạch Mai năm 2001 cho thấy tỉ lệ viêm thực quản do trào ngược khoảng 7,8%. Tuổi và giới: Bệnh hay gặp ở nam nhiều hơn nữ, lứa tuổi gặp nhiều nhất là 40- 49 tuổi. Chế độ sinh hoạt: Hút thuốc lá, uống rượu, cà phê, dùng các thuốc chống viêm không steroid, các thuốc chẹn kênh canxi,... có thể tạo nên cơ hội dễ nảy sinh GERD. Đặc biệt những người nghiện thuốc, ngoài hiện tượng giảm cơ thắt thực quản còn thấy tình trạng tăng áp lực trong khoang bụng tương ứng với lúc hít mạnh hoặc ho [4]

Bệnh thực quán trào ngược là tập hợp tất cả các triệu chứng và hậu quả ở thực quản do trào ngược gây ra.

1.2.3. Nguyên nhân

Hiện nay, nguyên nhân gây bệnh vẫn còn chưa tỏ song người ta tìm thấy một số yếu tố nguy cơ sau:

- Yếu tố gen: người ta nhận thấy ở một số gia đình có nhiều người cùng bị bệnh TNDDTQ

- Giải phẫu học, một số bệnh nhân có TQ ngắn, khỏi u TQ, thoát vị cơ

- Tuổi hay gặp nhiều ở người trên 40

- Giới: nam tập nhiều hơn nữ

- Chế độ sinh hoạt hút thuốc là, uống rượu, cà phê, dùng các thuốc chống viêm không steroid, các thuộc chọn kênh canxi,... đều ảnh hưởng đến khả năng trào ngược dạ dày TQ

- Béo phì

1.2.4. Chẩn đoán bệnh GERD

1.2.4.1. Lâm sàng

Hội chứng của bệnh GERD có triệu chứng rất đa dạng, từ những tổn thương rất nhẹ không có triệu chứng, không có biến chứng cho tới những trường hợp viêm thực quản có biến chứng về giải phẫu và chức năng.

- Các triệu chứng điển hình [24] [25]

+ Nóng rất sau xương ức: bệnh nhân có cảm giác nóng rát sau xương ức. lan lên trên, xuất hiện sau ăn, khi năm ngứa hoặc khi cúi. Triệu chứng đau tăng lên khi có kết hợp các yếu tố như ăn no, uống bia rượu, cà phê. Triệu chúng cũng có thể giảm khi dùng các thuốc trung hòa acid, ngôi hay đứng dày. Nóng rát sau bữa ăn và đêm phải thức dậy nhiều lần thường xảy ra ở những người có viêm thực quan nặng

+Ợ chua: bệnh nhân có cảm giác chua miệng khi ợ, thường xuất hiện sau ăn, khi nằm hoặc vào ban đêm, khi thay đổi tư thế. Ợ chua thưởng vào ban đêm kèm với cơn ho, khó thở. Dịch acid trào ngược lên họng gây nên.

- Các triệu chứng không diện hình: [24] [25]

+ Nuốt khó: khó khăn khi nuốt, cảm thấy vướng thường do co thắt, phù nề hoặc do hẹp thực quản.

+ Nuốt đau: là hiện tượng đau khi nuốt thường gắn liền với viêm thực quản nặng và thưởng báo hiệu là biến chứng ở thực quản

+ Đau ngực giống như cơn đau thắt ngực nhưng ở đây cơn đau không điển hình. Đặc điểm là đau rút sau xương ức, lan lên vai, sau lưng, lên cung răng. Các triệu chứng xảy ra không theo quy luật, ngắt quãng, không liên quan đến bữa ăn, lao động nặng hoặc gắng sức, đáp ứng kém với các thuốc giãn mạch. Các triệu chứng này tuy do trào ngược nhưng cũng nên làm các thâm dò chức năng khác để chẩn đoán phân biệt với bệnh lý động mạch vành, các rối loạn chức năng vận động TQ.

- Các triệu chứng ngoài cơ quan tiêu hóa: [24] [25]

+ Ho kéo dài là triệu chứng hay gặp về đường hô hấp của GERD, nguyên nhân có thể do hít phải chất trào ngược

+ Khó thở về ban đêm do acid dạ dày gây ra co thắt đường thở. Thường xảy ra ở những trường hợp GERD nặng, biểu hiện có thể chít hẹp, phù nề phế quản

+ Các triệu chứng tại họng: Sự rối loạn âm thanh xuất hiện với tần suất tương đối cao, biểu hiện như khàn giọng, khó phát âm kèm theo co thắt từng lúc. Viêm họng phát triển theo kiểu mạn tính, tái phát.

+ Các triệu chứng ở mũi: Đau như có dị vật mà không giải thích được làm bệnh nhân lo lắng, biểu hiện dị cảm mũi xảy ra khi nuốt nước bọt.

Với hai triệu chứng nóng rất sau xương ức và ở chùa hay gặp với tỷ lệ cao có giá trị giúp chân đoán lâm sàng tới khoảng 90% các trường hợp. Trong các trường hợp này nên tiến hành điều trị theo phác đồ chuẩn.

* Theo tiêu chuẩn Rome III: thời gian xuất hiện các triệu chứng kéo dài ít nhất 12 tuần trong 6 tháng (không cần liên tục), ít nhất 1 lần trong tuần [26].

1.2.3.2. Cận lâm sàng.

a. Nội soi

Được chỉ định để tránh bỏ sót chẩn đoán các bệnh có triệu chứng thực quản, xác định biến chứng và đánh giá thất bại điều trị. Các triệu chứng báo hiệu như khó nuốt, nuốt đau, ăn mau no, giảm cân hay chảy máu nên xtôi xét chỉ định nội soi.

Các cách phân loại tổn thương thực quản do GERD trên nội soi:

Phân loại của Savary – Miller: [27].

+ Độ 1: Có 1 vài đám xung huyết hay trợt loét nông nằm riêng rẽ về một phía theo chu vi thực quản

+ Độ 2: Có các đám xung huyết hay trợt loét nông nằm gần nhau nhưng ranh giới còn rõ rang nhưng không chiếm toàn bộ chu vi thực quản

+ Độ 3: Các đám xung huyết hay trợt loét nông chiếm toàn bộ chu vi thực quản nhưng không làm teo hẹp thực quản.

+ Độ 4: Loét thực sự và gây hẹp.

Phân loại theo Los Angeles: [22] [21]

+ Độ A: Có một hoặc nhiều tổn thương không kéo dài quá 5mm, không kéo dài giữa hai đỉnh nếp niêm mạc.

+ Độ B: Có một hoặc nhiều tổn thương kéo dài quá 5mm, không kéo dài giữa hai đỉnh nếp niêm mạc

+ Độ C: Có một hoặc nhiều tổn thương niêm mạc nối liền giữa hai hay nhiều nếp niêm mạc, nhưng không xâm phạm quá 75% chu vi ống thực quản.

+ Độ D: Có một hoặc nhiều tổn thương niêm mạc xâm phạm quá 75% chu vi ống thực quản.

b. Đo độ pH hoặc theo dõi pH – trở kháng

Được chỉ định để định lượng tình trạng tiếp xúc acid, hiện tượng trào ngược, và mối tương quan giữa trào ngược với triệu chứng ở những bệnh nhân có các triệu chứng dai dẳng mặc dù đã điều trị thuốc ức chế acid ( đặc biệt là trường hợp nội soi không thấy tổn thương ) hoặc những bệnh nhân có các triệu chứng không điển hình. Xác định pH – trở kháng cũng có thể xác định hiệu quả của thuốc ức chế acid ở những bệnh nhân GERD và các triệu chứng đang diễn ra.

c. Đo áp lực thực quản, đặc biệt là đo áp lực nhu động thực quản (HRM, có thể xác định các quá trình cơ học góp phần gây ra các triệu chứng dai dẳng [24].

d. Đo pH thực quản liên tục 24 giờ

Nhiều chuyên gia cho rằng những bất thường về pH thực quản 24 giờ có thể được coi như là tiêu chuẩn vàng để chân đoàn TNDDTQ. Phương pháp này theo dõi tổng số lần acid trào ngược lên TQ. Tuy nhiên rất khó phân biệt được những trào ngược sinh lý với trào ngược bệnh lý, ngưỡng giữa binh thường và không bình thưởng lại cho kết qua không rõ ràng.

e. Chụp xạ hình thực quản

Cho bệnh nhân cống 0,5mCi Tecnexi 99 – Phyton Sau những khoảng thời gian nhất định người ta xác định một độ tập trung ở 13 dưới thực quan. Độ nhạy của phương pháp này thấp hơn so với do pH TQ 24h. Tuy nhiên nó có ưu điểm là một phương pháp đơn giản hơn, hầu như không gây tấn thương. Mặc dù vậy nó không cho biết mối liên quan với triệu chứng lâm sàng như là đo pH TQ và vì thế không ưu tiên lựa chọn đầu tiên trong chẩn đoán.

1.2.3.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán đánh giá trên lâm sàng

Bộ câu hỏi GERD Q đã được Việt hóa do công ty Astra-Zeneca cung cấp. Bảng Việt hóa này đã được xác định là đảm bảo được ý nghĩa của bảng GERD Q gốc bằng tiếng Anh khi kiểm tra bằng phương pháp dịch ngược.

Theo thiết kế nghiên cứu đa trung tâm Diamond về bảng câu hỏi GERD Q do John Dent và cộng sự đã dàng trên tạp chí Scandinavian Journal of Gastroenterology 2008 với 1 bộ câu hỏi gồm 6 câu ( 4 câu về triệu chứng, 2 câu về tác động của bệnh trên bệnh nhân) do bệnh nhân tự điền và bác sỹ kiểm tra lại. Các trả lời được thiết kế theo thang điểm các lựa chọn ("không bao giờ", "1 ngày”, “2- 3 ngày" và "4- 7 ngày"), độ nhạy của GERD Q là 65% và độ đặc hiệu là 71% cho chẩn đoán GERD [28].

Hãy nhớ lại các triệu chứng trong 7 ngày vừa qua và chọn câu trả lời đúng nhất.

Bảng 1.1. Bảng câu hỏi đánh giá thang điểm GERD-Q.


1, Bạn có triệu chứng nóng rát giữa ngực, sau xương ức mấy ngày trong tuần?

A, 0 ngày ( 0 điểm )

B, 1 ngày ( 1 điểm )

C, 2 hoặc 3 ngày ( 2 điểm )

D, 4 đến 7 ngày ( 3 điểm )

2, Bạn có triệu chứng ợ nước chua hoặc thức ăn từ dạ dày lên cổ họng hoặc miệng mấy ngày trong tuần?

A, 0 ngày ( 0 điểm )

B, 1 ngày ( 1 điểm )

C, 2 hoặc 3 ngày ( 2 điểm )

D, 4 đến 7 ngày ( 3 điểm )

3, Bạn có triệu chứng đau ở vùng bụng trên mấy ngày trong tuần?

A, 0 ngày ( 3 điểm )

B, 1 ngày ( 2 điểm )

C, 2 hoặc 3 ngày ( 1 điểm )

D, 4 đến 7 ngày ( 0 điểm )

4, Bạn có triệu chứng buồn nôn mấy ngày trong tuần?

A, 0 ngày ( 3 điểm )

B, 1 ngày ( 2 điểm )

C, 2 hoặc 3 ngày ( 1 điểm )

D, 4 đến 7 ngày ( 0 điểm )

5, Bạn thấy khó ngủ vào ban đêm do cảm giác nóng rát sau xương ức và/hoặc ợ mấy ngày trong tuần?

A, 0 ngày ( 0 điểm )

B, 1 ngày ( 1 điểm )

C, 2 hoặc 3 ngày ( 2 điểm )

D, 4 đến 7 ngày ( 3 điểm )

6, Ngoài các thuốc trong đơn bác sĩ kê, bạn phải uống thêm một số loại thuốc khác như Phosphalugel, Maalox... mấy ngày trong tuần?

A, 0 ngày

( 0 điểm )

B, 1 ngày

( 1 điểm )

C, 2 hoặc 3 ngày

( 2 điểm )

D, 4 đến 7 ngày

( 3 điểm )

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 72 trang tài liệu này.

Thực trạng lo âu và trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế Bệnh viện E năm 2021 - 3

Bảng 1.2. Bảng đánh giá kết quả của thang điểm GERD-Q.


Tổng điểm

Điểm ô C ( Điểm tác động)

Chẩn đoán

% Khả năng viêm thực quản

0 – 2


Khả năng GERD

thấp

0

3 – 5


Khả năng GERD cao

13,2

6 – 8


GERD nhẹ

12,3

≥ 9

< 3

GERD nhẹ

40

≥ 3

GERD nặng


1.3. Các yếu tố liên quan đến lo âu, trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản


1.3.1. Nguyên nhân gây ra lo âu, trầm cảm

Giống như các rối loạn tâm thần khác, mặc dù nhiều nghiên cứu đã cung cấp một số dữ liệu nhưng cho đến nay khoa học vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân chính xác gây ra stress, lo âu, trầm cảm. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã chỉ ra được các yếu tố liên quan đến các rối loạn đó. Bao gồm các yếu tố sau [7, 31, 46]:

Các đặc điểm cá nhân: tuổi, giới tính, cân nặng, tình trạng bệnh tật, tính cách, suy nghĩ, trình độ học vấn, lối sống…

Gia đình: di truyền, số người trong gia đình, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, tình trạng về kinh tế, vật chất…

Môi trường xã hội: an ninh trật tự, tình hình chính trị, văn hoá, kinh tế… - Nơi làm việc: các mối quan hệ trong công việc, văn hoá tổ chức, môi trường làm việc, cơ sở vật chất, trang thiết bị, khối lượng công việc, các nguy cơ gặp phải trong công việc, vị trí, chức danh…

Môi trường tự nhiên: thiên tai, thời tiết, tiếng ồn, nhiệt độ, giao thông, bụi, sự ô nhiễm…

1.3.2. Dịch tễ học rối loạn lo âu, trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Các triệu chứng của GERD dường như là một gánh nặng cho bệnh nhân về sức khỏe thể chất, tình cảm và xã hội [2].

GERD cũng là một trong những vấn đề chính của đường tiêu hóa trên (GI); 10% đến 20% dân số báo cáo các triệu chứng của GERD mỗi tuần. Từ năm 2005 đến năm 2010, GERD dựa trên các triệu chứng phổ biến trong số 5,2% đến 8,5% dân số ở Đông Á. Ở Iran, tỷ lệ này phổ biến trong khoảng 6,3% đến 18,3% dân số, vì Iran là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á có phần lớn các nghiên cứu về tỷ lệ GERD đã được

thực hiện. Tại Pakistan, các nghiên cứu tại bệnh viện cho thấy GERD phổ biến ở 22,2% và 24,0% dân số trong hai nghiên cứu địa phương khác nhau [3].

Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu thống kê tỉ lệ rối loạn lo âu ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản

1.3.3. Những điều kiện gây rối loạn tâm thần ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) có tác động mạnh mẽ đến chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe, ảnh hưởng đến các hoạt động xã hội hàng ngày và thể chất và tình cảm của người bệnh. GERD cũng cản trở giấc ngủ và công việc lành mạnh. GERD là một rối loạn tiêu hóa ảnh hưởng đến cơ vòng thực quản dưới, gây ra các triệu chứng khó chịu như ợ chua hoặc khó tiêu axit [29].

GERD và các biến chứng của nó, bao gồm cả Barrett thực quản và ung thư biểu mô tuyến của thực quản, đang ngày càng phổ biến trên toàn thế giới [30]. Các triệu chứng của GERD gây khó chịu và thậm chí có thể mở rộng từ các triệu chứng chính thông thường là nôn trớ và viêm da mủ [29]. Mối liên quan giữa GERD và sức khỏe tâm lý đã được xác định trong nhiều nghiên cứu [31], [32]. Một kết nối chặt chẽ có thể tồn tại giữa đường tiêu hóa và não. Ví dụ, sự xuất hiện của cảm xúc đau khổ và căng thẳng có thể ảnh hưởng đến chức năng , dẫn đến các bệnh. Tương tự, căng thẳng có thể ảnh hưởng đến tinh thần và cảm xúc. Mức độ nghiêm trọng của rối loạn chức năng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý, làm thay đổi nhận thức về đau do hoạt động trên trục ruột-não, cũng áp dụng cho GERD.

Hơn nữa, các yếu tố tâm lý làm tăng khó khăn trong điều trị rối loạn chức năng, dẫn đến kết quả kém [31]. Tuy nhiên, không có mối liên quan đáng kể nào giữa mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng của GERD và những bất thường về sinh lý bệnh được xác định bằng đo pH và đo thực quản 24 giờ. Điều này ủng hộ quan điểm cho rằng các triệu chứng GERD bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố tâm lý [33]. Theo hiểu biết tốt nhất của chúng tôi, một số ít được xuất bản Các báo cáo toàn cầu thiết lập mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý, bao gồm trầm cảm và lo âu, và các triệu chứng GERD cho đến nay và kết quả của những nghiên cứu đó không nhất quán [30].

Cần có một bức tranh rõ ràng về mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý và GERD để có thể xác định và tiến hành điều trị thích hợp ở bệnh nhân GERD, vì các yếu tố tâm lý có thể làm tăng các triệu chứng của GERD cùng với việc làm xấu đi kết quả của liệu pháp và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Do đó, nghiên cứu này tập trung vào việc xác định tỷ lệ trầm cảm và lo âu ở bệnh nhân GERD.


1.4. Giới thiệu một số thang đo lường lo âu, trầm cảm và thang đánh giá lo lắng và trầm cảm bệnh viện (HADS)

Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều bộ công cụ được sử dụng để nghiên cứu, đánh giá các vấn đề sức khoẻ tâm thần (SKTT). Có thể kể đến một số bộ công cụ được sử dụng nhiều trong nghiên cứu khoa học như bộ câu hỏi đánh giá cảm nhận về stress (PSS 10), thang đánh giá về stress (GHO 12), thang tự đánh giá lo âu của Zung (SAS), thang đánh giá lo âu của Beck (BAI), thang đo đánh giá trầm cảm của Beck (BDI), thang đánh giá trầm cảm và lo âu (AKUADS), thang đánh giá stress, lo âu, trầm cảm của Lovibond (DASS 21 và DASS 42), thang đánh giá lo lắng và trầm cảm bệnh viện (HADS) của Zigmond and Snaith.

Thang đo lo âu và trầm cảm của bệnh viện (HADS) được Zigmond và Snaith [34] xây dựng cách đây 30 năm để đánh giá sự lo lắng và trầm cảm trong một nhóm bệnh nhân nói chung. Dần dần nó đã trở thành một công cụ phổ biến, cho thực hành và nghiên cứu lâm sàng [35].

Ưu điểm của thang điểm HADS là tính đơn giản, nhanh chóng và dễ sử dụng. Rất ít người gặp khó khăn khi hoàn thành nó, trên giấy hoặc điện tử. Nó đánh giá cả lo lắng và trầm cảm, thường cùng tồn tại . Các bác sĩ lâm sàng không nhận biết được lo âu, vì vậy cần được chủ động tìm kiếm . Lo lắng thường xảy ra trước trầm cảm để đối phó với các tác nhân gây căng thẳng, và việc xác định nhân viên có mức độ lo lắng cao hoặc gia tăng trước khi bị trầm cảm cho phép các bác sĩ sức khỏe nghề nghiệp tư vấn về các biện pháp can thiệp sớm khi nhân viên vẫn đang làm việc và có khả năng tránh được việc nghỉ ốm. Điều này sẽ bị bỏ sót khi sử dụng bảng câu hỏi chỉ dành cho bệnh trầm cảm như Bảng câu hỏi về sức khỏe bệnh nhân (PHQ9). HADS tập trung vào các triệu chứng phi thể chất để nó có thể được sử dụng để chẩn đoán trầm cảm ở những người có sức khỏe thể chất kém. Bất kỳ sự chồng chéo nào, ví dụ như suy giảm khả năng tập trung thứ phát sau đau hơn là trầm cảm, thường dễ tách biệt trên cơ sở cá nhân. HADS không bao gồm tất cả các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh trầm cảm (Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, Ấn bản thứ tư / thứ năm (DSM IV / V) hoặc tất cả các tiêu chí được Đơn vị phát triển công việc và sức khỏe. Quốc gia về bệnh trầm cảm và dài hạn yêu cầu Kiểm tra sàng lọc khi vắng mặt ốm đau. Đối với điều này, các câu hỏi bổ sung về sự thèm ăn, giấc ngủ và ý nghĩ tự làm hại / tự tử phải được đặt ra. Tất nhiên, việc đánh giá rủi ro đối với hành vi tự làm hại hoặc tự sát cần được thực hiện trong những trường hợp thích hợp [35].

Bảng câu hỏi bao gồm bảy câu hỏi cho lo lắng và bảy câu hỏi cho trầm cảm, và mất 2–5 phút để hoàn thành. Mặc dù các câu hỏi về lo âu và trầm cảm được xen kẽ trong bảng câu hỏi, nhưng điều quan trọng là chúng phải được chấm điểm riêng biệt.

Tại Việt Nam thang đo này được mua bản quyền và dịch sang tiếng Việt bởi Khoa nghiên cứu y học hành vi thuộc Trường Đại Học New South Well, Úc. Thang điểm HADS đã được nhiều nghiên cứu đánh giá về tính giá trị, độ tin cậy và khẳng định có thể áp dụng tại Việt Nam, không có sự khác biệt về mặt văn hoá.

Từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn thang đo HADS để sử dụng cho nghiên cứu của mình.

Về thang HADS trong nghiên cứu này sử dụng 14 câu hỏi đánh giá mức độ lo âu. Trong đó 7 câu đánh gia mức độ lo âu, 7 câu đánh giá mức độ trầm cảm. Mỗi câu có 4 mức độ trả lời tương ứng với điểm 0,1,2,3. Kết quả được phân tích theo tổng điểm các câu hỏi, theo các mức độ: Từ 0 đến 7 điểm: bình thường; từ 8 đến 10 điểm: có thể có triệu chứng của lo âu, trầm cảm; từ 11 đến 21 điểm: lo âu, trầm cảm thực sự.


1.5. Một số nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm trên thế giới và tại Việt Nam


1.5.1. Trên thế giới

Nghiên cứu của Saleh Mohammad Channa và các cộng sự (2019) sử dụng thang điểm HADS để đánh giá tình trạng lo âu trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản ở 2 nhóm bệnh nhân không đau ngực và có đau ngực. Trong nghiên cứu cắt ngang này, 258 bệnh nhân liên tiếp được chẩn đoán GERD được bao gồm từ ngày 1 tháng 1 năm 2019 đến ngày 30 tháng 7 năm 2019. Trong số 258 người tham gia, 112 người báo cáo lo lắng về đau ngực [10]. Biểu hiện lâm sàng của trào ngược dạ dày thực quản được đánh giá trên bảng câu hỏi về triệu chứng trào ngược dạ dày thực quản. Trong bảng câu hỏi này, các triệu chứng thực quản và ngoài thực quản liên quan đến GERD đã được đánh giá. Thang điểm Likert năm mục được sử dụng để phân loại tần suất và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng. GERD được chẩn đoán dựa trên các triệu chứng lâm sàng, chẳng hạn như chứng pyrosis (tức là ợ chua) và nôn trớ, theo tiêu chuẩn Montreal. Một bảy mục, đã được xác nhận bởi Yang XJ trong nghiên cứu của mình, bảng câu hỏi GERD được sử dụng để chẩn đoán GERD, và phần cắt 12 được khuyến nghị cho độ đặc hiệu là 84% và độ nhạy là 82% [36]. Các triệu chứng trầm cảm và lo lắng được đánh giá bằng Thang điểm Lo lắng / Trầm cảm của Bệnh viện (HADS), có các đặc tính đo lường tâm lý mạnh mẽ, ngắn gọn và dễ thực hiện. HADS bao gồm 14 mục được chia thành hai thang điểm 21 cho lo lắng và trầm cảm, và điểm ≥ 8 được coi là bất thường đối với lo âu hoặc trầm cảm. Kết quả khi nghiên cứu 258 bệnh nhân.

Bảng 1.3. Kết quả nghiên cứu của Saleh Mohammad Channa và các cộng sự


Điểm HADS

GERD không đau ngực (n=146)

GERD có đau ngực (n=112)

HADS trầm cảm

52 (35.6%)

55 (49.1%)

HADS lo âu

35 (23.9%)

54 (48.2%

HADS lô âu và trầm cảm

30 (24.7%)

40 (35.2%)

Từ nghiên cứu của Saleb Mohammad Channa và các cộng sự ta thấy rằng tỉ lệ lo âu và trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản có đau ngực cao hơn đáng kể ở người không có triệu chứng đau ngực.

Xem tất cả 72 trang.

Ngày đăng: 25/09/2024