Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của cơ quan hành chính nhà nước qua thực tiễn tỉnh Nghệ An - 10

phải thực hiện nghĩa vụ tài chính để hợp thức hóa phần diện tích tăng thêm theo quy định của Luật Đất đai năm 2003.

Hội đồng Bồi thường, giải phóng mặt bằng thành phố Vinh trong quá trình lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dự án mở rộng đường Nguyễn Sĩ Sách (đoạn từ Cửa hàng xăng dầu đến ngã tư ga Vinh) chưa thực hiện đầy đủ nội dung, trình tự, thủ tục quy định tại Quyết định số 74/2005/QĐ-UBND ngày 31/8/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An. Vì vậy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Vinh kiểm điểm, rút kinh nghiệm đối với các cá nhân có liên quan đến Hội đồng Bồi thường, giải phóng mặt bằng thành phố Vinh trong quá trình lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dự án mở rộng đường Nguyễn Sĩ Sách (đoạn từ Cửa hàng xăng dầu đến ngã tư ga Vinh) khi chưa thực hiện đầy đủ nội dung, trình tự, thủ tục quy định tại Quyết định số 74/2005/QĐ-UBND ngày 31/8/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An.

- Số vụ việc khiếu nại về đòi lại đất cũ là 1.278 vụ việc (chiếm 16 %).

Ví dụ vụ việc sau:

Bà Bùi Thị Mỹ Lê, trú tại khối 12, phường Quang Trung, thành phố Vinh khiếu nại đòi lại quyền sử dụng đất mà bà cho rằng Nhà nước đã giao cho gia đình bà sử dụng năm 1932 với diện tích 62,2m2 tại khu vực Đài tưởng niệm liệt sỹ thành phố Vinh (cũ) thuộc phường Quang Trung mà nay đang xây dựng Trung tâm thương mại và văn phòng cao cấp.

Bà Bùi Thị Mỹ Lê đã xuất trình các hồ sơ, tài liệu liên quan đến thửa đất bà đang khiếu nại: Khế bán đoạn theo Luật Đại Pháp giữa ông Hồ Văn Vũ cho ông Bùi Đính (là bố đẻ của bà Bùi Thị Mỹ Lê), có xác nhận của chính quyền Pháp; Giấy khai tử của ông Bùi Đính để đòi lại quyền sử dụng đất

Sau khi thẩm tra, xác minh, Ủy ban nhân dân thành phố Vinh, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã kết luận như sau:

Không thừa nhận việc bà Bùi Thị Mỹ Lê, khối 12, phường Quang Trung, thành phố Vinh khiếu nại đòi lại quyền sử dụng đất mà bà cho rằng Nhà nước đã giao cho gia đình bà sử dụng năm 1932 với diện tích 62,2m2 tại khu vực Đài tưởng niệm liệt sỹ cũ thuộc phường Quang Trung, với những lý do sau: Gia đình bà Bùi Thị Mỹ Lê không sử dụng đất từ năm 1946 đến nay. Hồ sơ địa chính qua các thời kỳ không phản ánh việc sử dụng đất của gia đình bà tại khu đất Đài tưởng niệm liệt sỹ cũ; Căn cứ vào khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai năm 2003: "Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao

theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam "; Việc bà Bùi Thị Mỹ Lê đòi quyền sử dụng đất tại khu vực Đài tưởng niệm liệt sỹ thành phố (cũ) mà nay Nhà nước đã xây dựng Trung tâm thương mại, văn phòng cho thuê và căn hộ cao cấp là không có cơ sở để giải quyết; Bà Bùi Thị Mỹ Lê không xuất trình được giấy tờ cho cơ quan nhà nước mượn đất để được giải quyết chính sách đất theo quy định tại Điều 116 Luật Đất đai năm 2003.

- Số vụ việc tranh chấp về quyền sử dụng đất là 1.357 vụ việc (chiếm 17 %). Ví dụ vụ việc sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Ông Nguyễn Văn Mai và bà Lê Thị Hồng Minh (khối Tân Tiến, phường Hưng Dũng, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An) tranh chấp quyền sử dụng 92 m2 đất.

Sau khi thẩm tra, xác minh, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã giải quyết như sau:

Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của cơ quan hành chính nhà nước qua thực tiễn tỉnh Nghệ An - 10

Việc Ủy ban nhân dân xã Hưng Dũng thời kỳ đó giao đất cho gia đình ông Mai với giáp ranh tứ cận rõ ràng (phía Bắc giáp đường lớn; phía Nam giáp đất ông Thường (thửa số 337 tờ bản đồ số 05); phía Đông giáp đất hiệu thuốc 8/3; phía Tây Giáp đất bà Thược) với diện tích 200 m2 đất là có sự mâu

thuẫn giữa định vị giáp ranh và diện tích. Bởi vì: Định vị giáp ranh như vậy thì diện tích đất cấp cho gia đình ông Nguyễn Văn Mai lớn hơn 200 m2; ngược lại nếu xác định đất ông Mai đúng 200 m2 thì không đúng với giáp ranh được xác định tại giấy phê chuẩn cấp đất của Ủy ban nhân dân xã Hưng Dũng cho ông Mai năm 1986. Sở dĩ có sự không thống nhất giữa giáp ranh tứ cận với 200 m2 đất là do: Phương tiện đo đạc thời kỳ đó là đo thủ công nên không xác định được chính xác diện tích thực tế mà căn cứ chủ yếu vào việc xác định ranh giới với các hộ liền kề để cắm mốc.

Về hiện trạng sử dụng 92 m2 đất mà các bên đang tranh chấp thì từ năm 1986 đến năm 1998 (thời điểm các bên phát sinh tranh chấp) gia đình bà Thược không sử dụng diện tích đất trên mà gia đình ông Mai sử dụng phần lớn diện tích. Trong tổng số 92m2 đất, gia đình ông Mai đã sử dụng 63m2 liền kề xây dựng các công trình kiên cố.

Căn cứ vào khoản 4 Điều 161, Nghị định số 181/2004/ NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định căn cứ để giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất thì căn cứ vào: "Sự phù hợp của hiện trạng sử dụng thửa đất đang có tranh chấp với quy hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt" Hiện trạng sử dụng đất của gia đình ông Mai tại vị trí đất đang tranh chấp là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất ở của địa phương. Như vậy căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất của các hộ gia đình để giải quyết tranh chấp.

- Số vụ việc tố cáo về đất đai là 159 vụ việc (chiếm 2%). Ví dụ vụ việc sau:

Bà Phùng Thị Anh, trú tại xóm Hòa Đình, xã Nghi Thu, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An tố cáo Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng thị xã Cửa Lò khi thực hiện dự án mở rộng đường Sào Nam vào năm 1995 đã lập phương án bồi thường về đất, về cây cối trên đất cho bà Phùng Thị Lợi không đúng pháp luật (bà Phùng Thị Lợi không thuộc đối tượng được bồi thường).

Sau khi thẩm tra, xác minh, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã kết luận, giải quyết như sau:

Bà Phùng Thị Anh tố cáo Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng thị xã Cửa Lò khi thực hiện dự án mở rộng đường Sào Nam vào năm 1995 đã lập phương án bồi thường về đất, cây cối trên đất cho bà Phùng Thị Lợi không đúng pháp luật (bà Phùng Thị Lợi không thuộc đối tượng được bồi thường) là tố cáo đúng; với những căn cứ sau:

- Diện tích đất 375 m2 và cây cối trên đất mà Hội đồng bồi thường thị xã Cửa Lò lập phương án bồi thường cho bà Phùng Thị Lợi không nằm trong phạm vi dự án mà Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã phê duyệt tại Quyết định số 107 /QĐ-UB ngày 24/5/1995.

- Diện tích đất 375 m2 là đất do Hợp tác xã nông nghiệp Nghi Thu quản lý, sử dụng và giao khoán cho bà Phùng Thị Lợi (không phải là đất nông nghiệp lập phương án giao cho hộ gia đình theo Nghị định 64/CP như Hội đồng bồi thường đã xác định). Vì vậy, diện tích đất trên không được bồi thường giá trị về đất theo quy định tại Nghị định số 90/CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ.

Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã yêu cầu Ủy ban nhân dân thị xã Cửa Lò:

- Thực hiện trách nhiệm xử lý số tiền đã lập phương án bồi thường về đất đai, cây cối cho bà Phùng Thị Lợi chưa đảm bảo đúng quy định của pháp luật theo hướng như sau:

+ Thu hồi số tiền đã lập phương án bồi thường về cây cối cho bà Phùng Thị Lợi và nộp vào Tài khoản tạm giữ tại Kho bạc tỉnh (TK 921-01- 000205, do Sở Tài chính quản lý). Đồng thời, chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã Nghi Thu có trách nhiệm thanh toán tiền bồi thường về cây cối cho bà Phùng Thị Lợi do Hợp tác xã nông nghiệp Nghi Thu thu hồi đất để xây dựng nhà trẻ.

+ Thu hồi số tiền đã lập phương án bồi thường về đất đai cho Hợp tác xã nông nghiệp xã Nghi Thu (bà Phùng Thị Lợi đứng tên đối tượng được hưởng chính sách) và nộp vào Tài khoản tạm giữ tại Kho bạc tỉnh (TK 921- 01-000205, do Sở Tài chính quản lý). Quá trình thu hồi có thể khẩu trừ 30 % giá trị tiền đất được xét hỗ trợ theo quy định tại Điều 9 của Nghị định số 90/CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ; nếu không thu hồi được, thì làm rõ trách nhiệm cá nhân để bồi hoàn ngân sách.

- Tổ chức làm rõ trách nhiệm để kiểm điểm, xử lý hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền kiểm điểm, xử lý đối với các cá nhân có liên quan trong việc lập Biên bản số 01 BB/UB ngày 22/8/1995, dẫn đến việc lập phương án bồi thường cho bà Phùng Thị Lợi không đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

- Số vụ việc khiếu nại về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nội dung khác là 2.609 vụ việc (chiếm 33 %).Ví dụ vụ việc sau:

Ông Lê Sỹ Hải, trú tại khối Tân Hòa, phường Hà Huy Tập, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An khiếu nại Ủy ban nhân dân thành phố Vinh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y 2821839 ngày 12/3/ 2004 cho gia đình ông không đúng với diện tích đất hiện trạng mà gia đình ông đang sử dụng từ năm 1986 đến nay và yêu cầu cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng pháp luật (trừ phần diện tích mương tiêu thủy đã có từ trước thời điểm gia đình ông được giao đất).

Sau khi thẩm tra, xác minh, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã kết luận, giải quyết như sau:

- Ông Lê Sỹ Hải, khối Tân Hòa, phường Hà Huy Tập, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An khiếu nại Ủy ban nhân dân thành phố Vinh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y 2821839 ngày 12/3/ 2004 cho gia đình ông không đúng với diện tích đất hiện trạng mà gia đình ông đang sử dụng từ năm 1986 đến nay và yêu cầu cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo

đúng pháp luật (trừ phần diện tích mương tiêu thủy đã có từ trước thời điểm gia đình ông được giao đất) là có cơ sở; với những căn cứ sau:

+ Ủy ban nhân dân thành phố Vinh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông Lê Sĩ Hải khi sử dụng Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất (biên bản này theo quy định được xác định theo hiện trạng) được lập chưa đúng với quy phạm thành lập bản đồ địa chính quy định tại Quyết định số 720/1999/QĐ-ĐC ngày 30/12/1999 của Tổng Cục trưởng Tổng cục Địa chính và cũng không yêu cầu ông Lê Sĩ Hải ký bổ sung theo quy định tại Hướng dẫn số 1191/HD-ĐC ngày 26/11/2003 của Sở Địa chính, là vi phạm Quyết định số 102/2001/QĐ-UB ngày 31/11/2001 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An và Thông tư 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục Địa chính.

+ Căn cứ vào giấy tờ về quyền sử dụng đất gia đình ông Lê Sĩ Hải cung cấp và hiện trạng thực tế đang sử dụng đất, thì không có căn cứ pháp lý để khẳng định các con đường phía Bắc, phía Nam, phía Tây phản ánh trên bản đồ đo đạc qua các thời kỳ (giáp với thửa đất của ông Lê Sĩ Hải) đã được nhân dân sử dụng trên thực tế và gia đình ông Lê Sĩ Hải lấn chiếm các con đường này để sử dụng vào phần diện tích đất của gia đình ông.

Vì vậy, yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Vinh thực hiện trách nhiệm sau:

- Hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y 281839 ngày 12/3/2004 đã cấp cho gia đình ông Lê Sĩ Hải, do việc cấp cấp Giấy chứng nhận chưa đảm bảo quy định của pháp luật.

- Chỉ đạo Phòng Tài nguyên và Môi trường xác định lại ranh giới, mốc giới, diện tích thửa đất thực tế gia đình ông Lê Sĩ Hải đang sử dụng (trừ phần diện tích mương tiêu thủy phía Tây đã có trước thời điểm gia đình ông Lê Sĩ Hải được giao đất) theo đúng khoản 3.6 điểm 3 Mục I của Thông tư số 29/2004/TT/BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về

việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính. Sau khi xác lập thửa đất, Ủy ban nhân dân thành phố Vinh căn cứ giấy tờ về quyền sử dụng đất, quá trình sử dụng đất ổn định để cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Lê Sĩ Hải theo đúng quy định của pháp luật.

b) Đánh giá tình hình giải quyết khiếu nại về đất đai của của các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Nghệ An

* Những kết quả đạt được trong công tác giải quyết khiếu nại về đất đai:

- Từ nhiều năm nay, tình hình khiếu nại luôn là vấn đề bức bách được các cấp ủy đảng, chính quyền trong tỉnh quan tâm. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An, các cấp ngànhh... đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, văn bản phối hợp về vấn đề này; ví dụ: Chỉ thị số 04 CT/TU ngày 16/7/2001 của Tỉnh ủy Nghệ An về tăng cường chỉ đạo, lãnh đạo về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; Quyết định số 132/2007/QĐ.UBND ngày 16/11/2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An về việc ban hành Quy định về tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo; giải quyết khiếu nại và tranh chấp đất đai trên địa bàn tỉnh Nghệ An; Quyết định số 64/2009/QĐ.UBND ngày 15/7/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An về việc ban hành Quy định chế độ trách nhiệm của người đứng đầu các ngành, các cấp trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh; Chương trình phối hợp số 01 CTPH/HND-TT- ĐC-TP ngày 26/8/2002 của Hội Nông dân tỉnh, Thanh tra tỉnh, Sở Địa chính- Sở Tư pháp về việc phối hợp tạo điều kiện để Hội Nông dân các cấp tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân. Các văn bản đó đã và đang được triển khai thực hiện, có tác động tích cực đến tình hình khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Đồng thời, cấp ủy, chính quyền tỉnh, huyện, xã đã tổ chức triển khai, quán triệt các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước (Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 20/3/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tập trung xử lý khiếu kiện của công dân trước, trong và sau Đại hội IX của Đảng; Chỉ

thị số 26/CT-TTg ngày 09/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tạo điều kiện cho Hội Nông dân tham gia giải quyết khiếu kiện của công dân; Chỉ thị số 36/2004/CT-TTg ngày 27/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 06/3/2002 của Ban Bí thư trung ương Đảng về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay; Thông báo Kết luận số 130/TB-TW ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị về tình hình, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2006 đến nay và giải pháp trong tình hình tới...) để cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan, tổ chức hiểu rõ trách nhiệm và tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại về đất đai, đặt công tác giải quyết khiếu nại về đất đai là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Các cấp ủy đã thực sự vào cuộc, chỉ đạo chính quyền, Mặt trận tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo về giải quyết khiếu nại về đất đai trong thời gian qua và đề ra giải pháp trong thời gian tới.

- Về cơ bản, đơn thư khiếu nại về đất đai của công dân, tổ chức đó được các cấp, ngành tỉnh Nghệ An xử lý, tham mưu giải quyết đúng quy định của pháp luật về đất đai, Luật khiếu nại, tố cáo và các quy định của pháp luật có liên quan. Giải quyết đơn thư đã có những chuyển biến nhất định, không để tồn đọng kéo dài, tham mưu kịp thời, đảm bảo thời gian quy định, chất lượng giải quyết ngày càng cao hơn, góp phần ổn định tình hình chính trị, giữ vững an ninh, trật tự xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất. Phần lớn các quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai của các cơ quan hành chính tỉnh Nghệ An (nhất là Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An) có căn cứ pháp luật, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, coi trọng đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, làm cho các quyết định giải quyết khiếu nại có tính khả thi, có lý, có tình, được nhân dân đồng tình, dư luận xã hội ủng hộ và đảm bảo hiệu lực thi hành, chấm dứt khiếu nại.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 16/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí