Tình Hình Giải Quyết Khiếu Nại Về Đất Đai Của Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh Nghệ An

dụng đất, thực hiện các giao dịch về đất đai; giao đất, cho thuê đất trái thẩm quyền, không đúng đối tượng, giao sai diện tích, không đúng quy hoạch, thu hồi đất rộng hơn nhu cầu dự án, thu hồi đất không theo dự án; gian lận trong lập phương án bồi thường và thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; điều chỉnh phương án quy hoạch xây dựng đô thị, điểm dân cư nông thôn không phù hợp nhu cầu điều chỉnh gây xáo trộn trong đời sống nhân dân…

- Sự yếu kém trong công tác bồi thường giải phóng mặt là nguyên nhân dẫn đến khiếu nại về công tác thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng chiếm tỷ lệ đơn thư khá cao:

Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện sở hữu toàn dân về đất đai và quyền của người sử dụng đất đã được pháp luật công nhận, dẫn tới nhấn mạnh quyền thu hồi đất của Nhà nước, nhấn mạnh việc tạo vốn từ quỹ đất mà chưa quan tâm đầy đủ lợi ích chính đáng của người sử dụng đất, đặc biệt là trong việc định giá đất bồi thường, xử lý mối tương quan giữa giá đất thu hồi với giá đất tái định cư (thu hồi theo giá Nhà nước quy định quá thấp, giao đất tái định cư lại theo giá gần sát giá thị trường).

Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của những người có đất bị thu hồi, thường chỉ nhấn mạnh đến tính cấp thiết của việc giải phóng mặt bằng để có được dự án, chưa chú ý những vấn đề xã hội nảy sinh sau khi thu hồi đất, dẫn tới không bảo đảm điều kiện tái định cư, không có phương án tích cực về giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi, nhất là đối với nông dân không còn hoặc còn ít đất sản xuất hoặc những người không còn việc làm như nơi ở cũ.

Chưa giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa nhà đầu tư cần sử dụng đất với người có đất bị thu hồi, thường nhấn mạnh đến môi trường đầu tư, nóng vội giải phóng mặt bằng để giao đất, cho thuê đất. Việc quy định giá đất quá thấp so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị

trường tuy có tác động tích cực tới việc khuyến khích nhà đầu tư nhưng lại gây ra những phản ứng gay gắt của những người có đất bị thu hồi.

Việc chưa điều chỉnh kịp thời giá đất sử tính bồi thường khi Nhà nước thực hiện dự án có liên quan đến nhiều tỉnh hoặc việc cho người có nhu cầu sử dụng đất phát triển các dự án tự thỏa thuận bồi thường với người dân đang sử dụng đất, người được giao đất muốn giải phóng mặt bằng nhanh đã chấp nhận giá bồi thường cao hơn quy định của Nhà nước làm cho mức đền bù chênh lệch trên cùng một khu vực, từ đó phát sinh khiếu nại.

Quy hoạch thu hồi đất nông nghiệp để giao cho các nông trường, lâm trường, các dự án đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng hạ tầng trong nhiều trường hợp chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng, tính khả thi thấp dẫn tới tình trạng thu hồi đất nhưng không sử dụng, sử dụng không có hiệu quả trong khi nông dân thiếu đất hoặc không còn đất sản xuất, đời sống khó khăn.

Không chấp hành đúng các quy định của Nhà nước về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư như ra thông báo giải phóng mặt bằng mà không có quyết định thu hồi đất, không thông báo trước về kế hoạch, phương án thu hồi đất cho người có đất bị thu hồi, cưỡng chế giải phóng mặt bằng trong khi chưa bố trí nơi tái định cư, quyết định thu hồi đất không đúng thẩm quyền, thu hồi đất để sử dụng vào mục đích trái quy hoạch đã được xét duyệt. Đối với một số dự án còn có tình trạng áp dụng pháp luật thiếu công bằng giữa những trường hợp có điều kiện tương tự.

Việc thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ việc quy hoạch phát triển đô thị và các khu công nghiệp nhiều nơi chưa cân nhắc, tính toán đồng bộ toàn diện dẫn đến trường hợp người dân bị thu hồi gần hết hoặc hết đất sản xuất, được đền bù bằng tiền (không có đất khác để giao), giá trị thấp, việc chuyển đổi nghề nghiệp là rất khó khăn do trình độ hạn chế dẫn đến thất nghiệp, đời sống gặp nhiều khó khăn, phát sinh các tệ nạn xã hội và phát sinh ra khiếu kiện.

* Nguyên nhân chủ quan:

- Việc áp dụng pháp luật của Ủy ban nhân dân các cấp còn có tình trạng tùy tiện, nhất là ở cấp huyện và cấp xã. Rất nhiều điểm đổi mới của Luật Đất đai năm 2003 vẫn chưa đưa được vào thực tế vì cán bộ quản lý ở nhiều nơi chưa biết, vẫn quyết định theo quy định của pháp luật trước đây. Ủy ban nhân dân các cấp chưa chăm lo nhiều đến công tác tiếp dân, công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của công dân. Từ đây làm cho dân không tin vào bộ máy hành chính ở cơ sở, không tin vào quyết định hành chính của địa phương, luôn mong muốn có sự phán quyết của tỉnh,Trung ương.

- Đất đai có giá trị đặc biệt, nhưng trong thời gian dài đã quản lý lỏng lẻo, dẫn tới những sai phạm có tính phổ biến, trong đó đáng lưu ý là một bộ phận cán bộ, công chức đã lợi dụng chức quyền để chia chác đất đai hoặc trục lợi từ đất đai, để lại những hậu quả nặng nề và gây ra những bức xúc trong dư luận xã hội. Tình trạng lấn chiếm đất đai diễn ra phổ biến, việc chuyển nhượng trao tay trong nhân dân không tuân theo quy định của pháp luật làm phát sinh các khiếu nại khó giải quyết.

- Một bộ phận người dân chưa nhận thức đầy đủ các quy định của pháp luật, nên khiếu nại thiếu căn cứ, khiếu nại những nội dung không thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính, cố chấp được thua, cố tình không thừa nhận việc giải quyết đúng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Một số trường hợp lợi dụng việc khiếu nại để kéo dài thời gian, không chấp hành quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật, thậm chí một số người còn lợi dụng quyền khiếu nại để gây rối, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội. Nhiều trường hợp cố tình gây rối, coi thường pháp luật và chống đối người thi hành công vụ nhưng chưa được xử lý nghiêm minh. Có những vụ việc người dân gửi đơn khiếu nại đến tất cả các cơ quan từ trung ương đến địa phương với hy vọng sẽ được tất cả các cơ quan này giải quyết. Do bức xúc cũng như nóng vội muốn được giải quyết ngay đối với khiếu nại

của mình nên trong khi các cơ quan có thẩm quyền đang xem xét giải quyết thì công dân vẫn tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến cơ quan cấp trên.

- Tình trạng vi phạm pháp luật, mất dân chủ, tham nhũng, tiêu cực xảy ra khá phổ biến, nhất là ở cơ sở gây bất bình, bức xúc trong nhân dân, làm phát sinh khiếu kiện. Một số cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, tham nhũng, tiêu cực ở cơ sở trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia, dính líu vào các vụ việc khiếu kiện, làm cho tình hình càng trở nên gay gắt, phức tạp hơn.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đất đai, pháp luật về khiếu nại còn quá nhiều yếu kém, chưa thường xuyên, không đúng trọng tâm, trong điểm và hiệu quả chưa cao. Các cấp, ngành, tổ chức xã hội chưa phát huy hết được vai trò của mình trong giáo dục pháp luật cho từng nhóm đối tượng cụ thể.

2.2.2. Tình hình giải quyết khiếu nại về đất đai của cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Nghệ An

a) Kết quả giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Nghệ An

Từ khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực (ngày 01/7/2007), thì công tác giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Nghệ An đã thực hiện được như sau [22]:

* Từ năm 2004 đến 2010, các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Nghệ An phải giải quyết 13.094 vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp theo thẩm quyền pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về đất đai quy định (năm 2004: vụ việc; năm 2005: vụ việc; năm 2006: vụ việc; năm 2007: vụ việc; năm 2008: vụ việc; năm 2009: vụ việc; năm 2010: vụ việc); trong đó:

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An phải giải quyết 322 vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp.

- Giám đốc các Sở, ngành phải giải quyết 1.670 vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp.

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phải giải quyết 4.933 vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp.

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phải giải quyết 6.142 vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp.

Cụ thể các năm như sau:

Bảng 2.4: Thống kê số lượng vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp

về đất đai từ năm 2004 đến năm 2010 các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Nghệ An phải giải quyết


Người giải quyết

Đơn vị tính

Năm

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An

Vụ việc

32

47

78

80

74

5

6

Giám đốc các Sở, ngành

Vụ việc

380

424

394

211

195

35

31

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện

Vụ việc

830

1.096

1.044

734

549

312

368

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã

Vụ việc

1.199

1.577

1.058

876

647

368

417

Tổng

Vụ việc

2.441

3.144

2.601

1.901

1.465

720

822

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của cơ quan hành chính nhà nước qua thực tiễn tỉnh Nghệ An - 9

Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An.

* Từ năm 2004 đến 2010, các cơ quan hành chính tỉnh Nghệ An đã giải quyết 12.099 vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp theo thẩm quyền pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về đất đai quy định (năm 2004: 2.242 vụ việc; năm 2005: 2.868 vụ việc; năm 2006: 2.385 vụ việc; năm 2007: 1.762 vụ

việc; năm 2008: 1.376 vụ việc; năm 2009: 668 vụ việc; năm 2010: 798 vụ việc); trong đó:

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã giải quyết 297 vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp.

- Giám đốc các Sở, ngành đã giải quyết 1.536 vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp.

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết 4.578 vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp.

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã giải quyết 5.679 vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp.

Cụ thể các năm như sau:

Bảng 2.5: Thống kê số lượng vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp

về đất đai từ năm 2004 đến năm 2010 các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Nghệ An đã giải quyết


Người giải quyết

Đơn vị tính

Năm

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An

Vụ việc

29

43

70

75

69

5

6

Giám đốc các Sở, ngành

Vụ việc

348

385

360

198

182

32

31

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện

Vụ việc

770

998

960

687

514

293

356

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã

Vụ việc

1.095

1.442

995

802

602

338

405

Tổng

Vụ việc

2.242

2.868

2.385

1.762

1.376

668

798

Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An.

Qua đối chiếu số lượng các vụ việc phải giải quyết và các vụ việc đã giải quyết, thấy như sau:

Bảng 2.6: Tỷ lệ vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai

từ năm 2004 đến năm 2010 đã được các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Nghệ An giải quyết


Năm

Số vụ việc phải giải quyết (vụ)

Số vụ việc đã giải quyết (vụ)

Tỷ lệ đã giải quyết (%)

2004

2.441

2.242

91,8

2005

3.144

2.868

91,2

2006

2.601

2.385

91,7

2007

1.901

1.762

92,7

2008

1.465

1.376

93,3

2009

720

668

97,1

2010

822

798

91,9

Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An.

* Từ năm 2004 đến 2010, các cơ quan hành chính tỉnh Nghệ An đã giải quyết 7.958 vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai theo thẩm quyền (chiếm 65% các vụ việc khiếu nại đã giải quyết); trong đó:

- Số vụ việc khiếu nại về bồi thường, giải phóng mặt bằng là 2.555 vụ việc (chiếm 32 %). Ví dụ vụ việc sau:

Ông Hồ Viết Hùng, Ông Hồ Viết Hoa, khối Vinh Tiến, phường Hưng Bình, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An khiếu nại nội dung sau: Ông Hồ Viết Hùng khiếu nại Quyết định số 1184/QĐ.UBND-ĐC ngày 15/12/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An " V/v phê duyệt phương án bồi thường giải phóng mặt bằng dự án xây dựng đường Nguyễn Sĩ Sách", trong đó chỉ bồi thường về đất cho gia đình ông với diện tích 24,2 m2. Ông Hồ Viết Hùng yêu cầu bồi

thường về đất cho gia đình ông theo diện tích hiện trạng đang sử dụng là 63,82 m2 (phần diện tích yêu cầu bồi thường bổ sung là 39,62 m2); Ông Hồ Viết Hoa khiếu nại Quyết định số 1184/QĐ.UBND-ĐC ngày 15/12/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An "về việc phê duyệt phương án bồi thường giải phóng mặt bằng dự án xây dựng đường Nguyễn Sĩ Sách", trong đó chỉ bồi thường về đất cho gia đình ông với diện tích 32,9 m2. Ông Hồ Viết Hoa yêu cầu bồi thường về đất cho gia đình ông theo diện tích hiện trạng đang sử dụng là 78,89 m2 (phần diện tích yêu cầu bồi thường bổ sung là 45,99 m2).

Sau khi tiến hành thẩm tra, xác minh, đã phát hiện những tồn tại trong thực hiện chính sách về bồi thường của Ủy ban nhân dân thành phố Vinh; Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã kết luận, giải quyết như sau:

Ông Hồ Viết Hùng, ông Hồ Viết Hoa khiếu nại Quyết định số 1184/QĐ.UBND-ĐC ngày 15/12/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An "về việc phê duyệt phương án bồi thường giải phóng mặt bằng dự án xây dựng đường Nguyễn Sĩ Sách" và yêu cầu bồi thường diện tích đất gia đình ông đang sử dụng lớn hơn diện tích trong bản đồ đo đạc năm 1999 hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (ông Hồ Viết Hùng yêu cầu bồi thường 39,62 m2; ông

Hồ Viết Hoa yêu cầu bồi thường 45,99 m2) là có cơ sở để xem xét, giải quyết theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 6 của Quyết định số 74/2005/QĐ-UBND ngày 31/8/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An: "1. Trường hợp diện tích thu hồi thực tế lớn hơn diện tích ghi trong giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất hoặc diện tích trong bản đồ Nhà nước quản lý ở thời điểm gần nhất thì phần diện tích tăng lên nếu được Ủy ban nhân dân xã, phường xác nhận không có tranh chấp, không phải là đất lấn chiếm thì được bồi thường theo quy định; đối các trường hợp sử dụng đất từ ngày 15/10/1993 đến ngày có quyết định thu hồi đất của cấp có thẩm quyền, nếu bồi thường thì phải khấu trừ số tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai (nếu có) theo quy định về việc hợp thức hóa phần diện tích tăng thêm để nộp ngân sách.".

Giao cho Hội đồng Bồi thường, giải phóng mặt bằng thành phố Vinh lập bổ sung phương án bồi thường về đất cho gia đình ông Hồ Viết Hùng, ông Hồ Viết Hoa đối với diện tích đất gia đình 2 ông đang sử dụng lớn hơn diện tích đo đạc chính quy năm 1999 hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hướng sau: Bồi thường đối với phần diện tích dưới mái bay bê tông gắn liền với ngôi nhà cấp 3 gia đình ông Hồ Viết Hùng, ông Hồ Viết Hoa đã xây dựng và ở trước ngày 15/10/1993, cụ thể: ông Hồ Viết Hùng được bồi thường 8, 382 m2; ông Hồ Viết Hoa được bồi thường 7, 0125 m2; Đối với phần diện tích đất gia đình ông Hồ Viết Hùng, ông Hồ Viết Hoa đang sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh (ông Hồ Viết Hùng là 31,238 m2; ông Hồ Viết Hoa là 38,9775 m2), thì Hội đồng Bồi thường, giải phóng mặt bằng thành phố Vinh căn cứ vào ý kiến xác nhận của Hội đồng đăng ký đất đai của Ủy ban nhân dân phường Hưng Bình về thời điểm sử dụng đất của gia đình ông Hồ Viết Hùng, ông Hồ Viết Hoa để lập phương án bồi thường: nếu Hội đồng đăng ký đất đai của phường Hưng Bình xác nhận diện tích đất 2 hộ gia đình

sử dụng trước ngày 15/10/1993 thì bồi thường theo quy định; nếu Hội đồng đăng ký đất đai của phường Hưng Bình xác nhận diện tích đất 2 hộ gia đình sử dụng sau ngày 15/10/1993 thì vẫn bồi thường, nhưng phải khấu trừ số tiền

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/11/2023