Kinh Nghiệm Áp Dụng Pháp Luật Trong Giải Quyết Khiếu Nại Về Đất Đai Ở Tỉnh Đồng Tháp

tác chỉnh trang đô thị và áp dụng pháp luật trong GQKNTC về đất đai là những bài học kinh nghiệm quý giá cho các địa phương khác trong cả nước trong đó có thành phố Hà Nội.

1.3.1.3. Kinh nghiệm áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai ở tỉnh Đồng Tháp

Do đặc thù về điều kiện tự nhiên và xã hội, người dân ở đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu sống bằng canh tác nông, lâm, ngư nghiệp nên đất đai không những vừa là tư liệu sản xuất chính mà còn là tài sản có giá trị nhất của người dân.

Đồng Tháp thời gian qua cũng phát sinh một số vụ việc khiếu nại bức xúc phức tạp, đông người, kéo dài, điển hình như: vụ tranh chấp đất tràm ở vườn Quốc gia Tràm Chim, huyện Tam Nông; vụ tranh chấp đất tràm ở nông trường Gáo Giồng, huyện Cao Lãnh, vụ tranh chấp ở Cồn Tân Long, huyện Thanh Bình, vụ tranh chấp ở Khu kinh tế cửa khẩu Thường Phước, huyện Hồng Ngự...

Nguyên nhân chính của việc khiếu kiện, tái khiếu, khiếu tố vượt cấp, đông người là do các địa phương khi thu hồi đất chỉ chú trọng đến việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và chi hỗ trợ một phần để đào tạo, chuyển đổi việc làm cho người bị thu hồi đất, chứ chưa quan tâm đầy đủ đến các chính sách chăm lo đời sống cho người dân sau khi bị thu hồi đất. Bên cạnh đó, do vai trò trách nhiệm Thủ trưởng các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải quyết tranh chấp, khiếu kiện có những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu; việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai nhất là ở cơ sở còn nhiều thiếu sót, bất cập; các yếu kém về tổ chức bộ máy, năng lực cán bộ, công chức, quan điểm vận dụng pháp luật còn máy móc, thiếu thực tiễn; giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện đôi khi không kịp thời, chưa chú trọng đến quyền lợi chính đáng của người dân, gây bức xúc cho nhân dân dẫn đến khiếu kiện. Thủ tục hành chính còn rườm rà, chồng chéo,

bất cập, thiếu đồng bộ, vấn đề xung đột thẩm quyền đối với những tranh chấp khiếu kiện về đất đai đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước 15/10/1993... Ngoài ra, do công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn nhiều hạn chế, do vậy, nhận thức và hiểu biết pháp luật của công dân về quan hệ sở hữu đất đai còn sai lệch nên dễ bị kích động, lôi kéo, xúi giục khiếu kiện.

Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Tháp đã ban hành Chỉ thị số 03 CT/TU ngày 08/3/2001 về việc tăng cường GQKNTC của công dân, đồng thời tổ chức quán triệt và thực hiện một số văn bản chỉ đạo của Trung ương về công tác GQKNTC. UBND tỉnh cũng ban hành các chỉ thị nhằm chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng các CQHCNN trong công tác GQKNTC của công dân và các văn bản quy phạm pháp luật khác làm cơ sở để giải quyết các khiếu nại về đất đai (như khung giá đất, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư...)

Từ việc tổ chức thực hiện nghiêm các chỉ đạo nói trên, vai trò trách nhiệm của Thủ trưởng các ngành, các cấp và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác GQKNTC đã được nâng lên, giải quyết kịp thời các khiếu kiện phát sinh trong thời gian luật định, nhất là đối với các vụ khiếu kiện bức xúc, phức tạp, đông người, kéo dài. Các cơ quan, tổ chức ngày càng xác định rò hơn trách nhiệm của mình thể hiện qua việc xây dựng quy chế, quy ước phối hợp giải quyết tranh chấp, khiếu kiện theo thẩm quyền. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được tăng cường, xác định kết quả GQKNTC là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Đến nay công tác GQKNTC cơ bản đã đi vào nề nếp, tỷ lệ giải quyết hàng năm luôn đạt trên 80 , số đơn tồn đọng cũng giảm đến mức thấp nhất, từ đó đã góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh, góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương ngày càng phát triển.

Từ thực tế áp dụng pháp luật trong GQKN về đất đai, tỉnh Đồng Tháp

đã rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Một là, phải làm tốt công tác dân vận; tiếp công dân và giải quyết đơn thư, đặt lợi ích của người dân lên trên hết. Đặc biệt lưu ý khi có khiếu kiện đông người lên Trung ương thì Chủ tịch UBND các địa phương phải trực tiếp chỉ đạo, nếu vì lý do bất khả kháng thì cần bố trí người có trách nhiệm để trực tiếp đối thoại với công dân, trong các trường hợp cần thiết thì phối hợp với cơ quan có thẩm quyền sở tại có biện pháp hành chính để buộc công dân phải chấp hành và trở về địa phương, chấm dứt tình trạng phó mặc cho các cơ quan Trung ương và Trụ sở tiếp công dân. Việc GQKN phải đảm bảo trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Đối với các vụ việc còn tồn đọng, hiện đang khiếu vượt cấp, đông người, Chủ tịch UBND các địa phương phải nhanh chóng tổ chức thống kê lại trên cơ sở đó phối hợp với với các bộ, ngành của địa phương và các cơ quan chức năng của Trung ương đề ra biện pháp giải quyết tổng thể phù hợp với thực tế tại địa phương mình kể cả các biện pháp cần sự hỗ trợ của Chính phủ thì trình Chính phủ có ý kiến cho phép địa phương thực hiện (như tạo quỹ đất, điều tiết đất của các nông, lâm trường, đất đang sử dụng không hiệu quả, đất cấp, cho thuê, cho mượn có nguồn gốc không hợp pháp v.v...). Trong quá trình giải quyết nếu có khó khăn thì phối hợp với các bộ, ngành Trung ương thống nhất biện pháp giải quyết để công dân chấm dứt khiếu kiện.

Hai là, UBND các địa phương phải công khai, nhất quán các quy hoạch, tránh mâu thuẫn giữa các quy hoạch tổng thể, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng. Bên cạnh đó, phải quy định rò quyền lợi người dân sống trong vùng quy hoạch nhưng chưa thực hiện quy hoạch để người dân yên tâm. Trong thực tế nhiều công dân vừa qua trong diện này khiếu nại vì không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lo lắng không được bồi thường, không được tái định cư... Có chính sách ưu đãi hơn đối với những hộ dân bị thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công

Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội - 7

cộng, vận dụng linh hoạt các chính sách về giá, hỗ trợ tái định cư, hỗ trợ tạo công ăn việc làm để các hộ dân an tâm ổn định đời sống. Khuyến khích nhà đầu tư đào tạo nghề, thu hút lao động, ưu tiên cho những người lao động bị thu hồi đất. Đối với các dự án phát triển kinh tế, nên có tổ chức tư vấn cho người dân trong đàm phán với các nhà đầu tư, về giá trị tài sản giao dịch, nên khuyến khích các nhà đầu tư thoả thuận cho người dân góp vốn cổ phần đối với tài sản, đất đai (hoặc thuê) để người dân được trực tiếp tham gia vào dự án. Như vậy, Nhà nước vừa giảm được chi phí đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho người dân, vừa giúp người dân sử dụng nguồn vốn của mình có hiệu quả và cộng đồng trách nhiệm với các nhà đầu tư, xoá bỏ phân biệt đối xử và rút ngắn chênh lệch giàu nghèo và ổn định đời sống cho người dân bị thu hồi đất.

Ba là, hàng năm, cần ban hành quyết định quy định giá đất tại địa phương sát đúng với giá thị trường để người dân thực hiện đúng nghĩa vụ đóng thuế sử dụng đất. Trước đây, chúng ta thường có chính sách nhẹ thu đối với người dân nên khi định giá đất để thu thuế sử dụng đất không sát, không đúng, thường thấp hơn giá trị thực tế, do vậy nhà nước không những bị thất thu về thuế, mà người dân bị thu hồi đất lại khiếu nại về việc giá đền bù thấp, không đúng giá thực tế gây khó khăn cho việc giải phóng mặt bằng giao đất cho các dự án.

Bốn là, phải nắm bắt thông tin, phân loại kịp thời các loại đơn thư khiếu kiện để lựa chọn các quy định của pháp luật, với cách thức và biện pháp thích hợp để có hình thức xử lý phù hợp hiệu quả.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm đối với thành phố Hà Nội

Từ thực tiễn công tác GQKN của các địa phương nêu trên trong thời gian qua, có thể nêu lên một số kinh nghiệm đối với thành phố Hà Nội trong áp dụng pháp luật về GQKN đất đai như sau:

Thứ nhất, phải đảm bảo sự đồng thuận từ trong nội bộ Đảng, sự đồng

thuận giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Nhưng quan trọng nhất là Đảng và chính quyền làm việc gì cũng phải đặt lợi ích của người dân lên trên hết.

Thứ hai, phải nắm bắt thông tin, phân loại kịp thời các loại đơn thư khiếu kiện để lựa chọn các quy định của pháp luật, với cách thức và biện pháp thích hợp để có hình thức xử lý phù hợp hiệu quả. Phải nắm chắc tình hình tranh chấp, khiếu kiện trong phạm vi quản lý của ngành, địa phương mình để kịp thời giải quyết, nhất là những vụ khiếu kiện đông người; việc giải quyết phải được thực hiện ngay từ cơ sở, hạn chế khiếu nại vượt cấp; không để vụ việc diễn biến phức tạp trở thành khiếu kiện đông người.

Thứ ba, phải làm tốt công tác dân vận; tiếp công dân và giải quyết đơn thư, đặt lợi ích của người dân lên trên hết. Phải tăng cường công tác tiếp dân, đối thoại với công dân để khi giải quyết đảm bảo chính xác, khách quan có tình, có lý và có tính thuyết phục cao. Đối với những trường hợp đã giải quyết thoả đáng, đúng chính sách, đúng pháp luật, thì các cơ quan chức năng, có thẩm quyền phải phối hợp với các cơ quan, đoàn thể và nhân dân địa phương giải thích, động viên, thuyết phục họ thực hiện và chấm dứt khiếu nại. Đối với những người có vai trò chủ chốt trong các đoàn khiếu kiện đông người nếu cố tình lợi dụng khiếu nại để kích động, lôi kéo khiếu nại trái pháp luật thì phải kiên quyết xử lý theo quy định.

Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác GQKNTC đối với thủ trưởng các cấp, các ngành trong việc chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Kiên quyết xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thiếu trách nhiệm trong công tác GQKNTC của công dân và những người lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích động, lôi kéo gây rối làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.

Thứ năm, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật cho công dân để họ thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đúng quy định của pháp luật; hạn chế khiếu kiện

không đúng cơ quan thẩm quyền giải quyết, hạn chế khiếu kiện đông người, vượt cấp trái với quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo nhằm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.

Thứ sáu, chú trọng từng bước hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về đất đai, tạo hành lang pháp lý để triển khai công việc hiệu quả, hạn chế tối đa việc nảy sinh khiếu nại, tố cáo.

Những kinh nghiệm trên đây về áp dụng pháp luật trong GQKN về đất đai thiết nghĩ rất có ý nghĩa đối với UBND thành phố Hà Nội.

Chương 2

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI‌


2.1. TÌNH HÌNH KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1.1. Tình hình khiếu nại và nguyên nhân của khiếu nại về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội

2.1.1.1. Tình hình khiếu nại về đất đai ở Hà Nội

Sau sự kiện ra đời Nghị quyết số 15/2008/QH12 của Quốc hội về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội, ký ngày 29-5-2008 có hiệu lực từ 1-8-2008 đã mang lại tầm vóc mới chưa từng có cho Thủ đô Hà Nội. Hà Nội trở thành Thành phố lớn thứ 1 trên thế giới, với diện tích 3344,6 km2 (tăng hơn 3 lần, chiếm khoảng 1 diện tích cả nước); dân số gần triệu người (tăng hơn 2 lần, chiếm gần 8 dân số cả nước) và 555 đơn vị hành chính, trong đó có 29 quận, huyện và thị xã.

Đây là sự kiện đặc biệt có tác động toàn diện đến đời sống chính trị và phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô. Thành phố Hà Nội đã tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết của Quốc hội, tạo tiền đề cho sự phát triển mới và tạo không khí đoàn kết phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân Thủ đô.

Thủ đô Hà Nội ngày càng mở rộng và phát triển toàn diện theo cả bề rộng và bề sâu, gắn kết hài hòa hơn giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội; các nguồn lực của thành phố ngày càng được khai thác và phối hợp hiệu quả. Quá trình tái cấu trúc kinh tế đang được thúc đẩy, sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm chủ lực ngày càng cao. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật,

hạ tầng xã hội ngày càng phát triển đồng bộ, hiện đại, từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển và tô đẹp thêm cho cảnh sắc Thủ đô.

Bên cạnh đó, Hà Nội cũng đang đứng trước những thách thức mới của sự phát triển về hạ tầng đô thị và nông thôn, về hạ tầng văn hóa xã hội…Thủ đô mở rộng còn thiếu đồng bộ trên nhiều phương diện, sự hạn chế về năng lực, trình độ quản lý kinh tế - xã hội của một số bộ phận cán bộ, công chức các cấp, các ngành, sự khác nhau giữa hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện cơ chế, chính sách.

Việc phát triển cũng gắn liền với việc thu hồi đất, phải thực hiện chính sách đền bù để giải phóng mặt bằng. Trong quá trình thực hiện các hoạt động này đã không tránh khỏi đụng chạm đến quyền lợi của người dân thậm chí có cả tình trạng vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp về đất đai của người dân.

Người dân cho rằng Nhà nước bồi thường cho dân giá rẻ, giao đất cho doanh nghiệp thực hiện dự án, bán thu chênh lệch cao, người dân mất đất, phát sinh mâu thuẫn lợi ích. Mặt khác, người dân không đồng tình cơ chế thu hồi đất hiện nay và việc giao cho Trung tâm Phát triển quỹ đất ở các địa phương (đơn vị sự nghiệp có thu tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; tạo quỹ đất để đấu giá quyền sử dụng đất; phát triển khu tái định cư…).

Bên cạnh đó, có tình trạng việc tranh chấp đất và khiếu kiện về đất đai trong bộ phận dân cư tại các khu vực có những biến động về đất (hợp nhất địa giới hành chính, lập quận mới, chuyển từ đất nông nghiệp sang đất ở, giải phóng mặt bằng khi xây ây dựng các khu đô thị mới, các dự án phát triển hạ tầng đô thị và giao thông) càng ngày càng tăng lên và có xu hướng phức tạp, nhiều vụ việc khiếu kiện đông người tạo thành "điểm nóng" gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Đối tượng khiếu nại, tố cáo rất đa dạng: Cá nhân, tổ chức, hợp tác xã, cũng có trường hợp là đơn thư từ nước ngoài gửi về đòi Nhà nước trả lại nhà. Trong các đơn khiếu nại đòi sở hữu nhà có một số không chỉ khiếu nại đòi nhà mà còn đòi Nhà nước xem xét lại các chủ trương chính sách đương thời.

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí