Khái Niệm Và Đặc Điểm Giải Quyết Khiếu Nại Về Đất Đai

1.1.2. Quan niệm giải quyết khiếu nại về đất đai

1.1.2.1. Khái niệm đất đai

Theo quan điểm của Các Mác, đất đai là tài nguyên thiên nhiên, là tặng vật của tự nhiên cho loài người, không ai có quyền chiếm đoạt thành sở hữu riêng của mình. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước, là nguồn sống của nhân dân.

Ở nước ta: Đất đai, rừng, núi, sông, hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân [20, Điều 1 ].

Theo Luật đất đai, đất đai có tầm quan trọng đặc biệt đối với con người, "đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng" [21].

Thực tiễn đã khẳng định, mọi hoạt động của con người đều bắt nguồn từ đất đai. Thông qua đất đai, con người sản xuất ra lương thực, thực phẩm nhằm nuôi sống bản thân mình. Đất đai còn tạo nền tảng, địa bàn cho quá trình sản xuất của con người và là nguyên liệu, vật liệu cho một số ngành công nghiệp, xây dựng.

Dưới góc độ chính trị - pháp lý, đất đai là một trong những yếu tố cơ bản nhất xác lập sự tồn tại của một quốc gia. Đất đai là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ quốc gia và gắn liền với chủ quyền quốc gia. Ngày nay, trong pháp luật quốc tế hiện đại không thể tồn tại khái niệm về quốc gia mà thiếu yếu tố đất đai.

Đất đai có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Chính vì vậy, các cuộc cách mạng diễn ra trong lịch sử đều xác định đất đai là đối tượng chủ yếu và coi đó là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu cần phải giải quyết. Cũng chính vì vậy mà quyền sở hữu đất đai luôn luôn là một chế định quan trọng trong pháp luật của bất cứ quốc gia nào trên thế giới.

Ở nước ta, mặc dù trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau từ việc công nhận các hình thức sở hữu đối với đất đai cho đến việc lựa chọn hình thức sở hữu toàn dân đối với đất đai hiện nay, thì đất đai bao giờ và trước hết cũng được coi là tài sản của Nhà nước. Bởi lẽ, đất đai ở nước ta không chỉ đơn thuần là tặng vật của thiên nhiên ban cho mà còn là thành quả đấu tranh lâu dài, gian khổ chống ngoại xâm và khai phá, cải tạo đất đai của các thế hệ người Việt Nam mới dành được. Đại diện cho Nhà nước đó là vương quyền của một triều đại (đối với đất nước ta dưới thời phong kiến) hay là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân (đối với đất nước ta hiện nay). Tuy nhiên, cùng một nguyên tắc "đất đai thuộc sở hữu của toàn xã hội mà đại diện là Nhà nước" song cách thức thực hiện quyền sở hữu này lại khác nhau trong từng thời kỳ lịch sử. Đất nước ta dưới thời phong kiến và ngay cả trong thời kỳ hiện đại từ năm 1945 đến năm 1980 vẫn tồn tại sở hữu tư nhân về đất đai. Người có đất hợp pháp được coi là người sở hữu. Vì vậy, việc mua bán, chuyển nhượng đất đai được xem như là một dạng chuyển nhượng, mua bán tài sản thông thường. Chủ sở hữu được toàn quyền quyết định, ngoại trừ một số ràng buộc chung của pháp luật và đạo đức xã hội. Tuy nhiên, với việc coi đất đai thuộc sở hữu của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, Hiến pháp năm 1980 đã làm nảy sinh nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến chuyển nhượng đất đai, nhất là vấn đề về địa vị của các chủ thể trong các giao dịch nói trên.

Đất đai do đó cũng là chủ đề nóng của khiếu nại, tố cáo và GQKN về đất đai luôn là nội dung được quan tâm điều chỉnh trong pháp luật.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

1.1.2.2. Khái niệm và đặc điểm giải quyết khiếu nại về đất đai

- Khiếu nại về đất đai

Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội - 4

Khiếu nại về đất đai là một khái niệm dùng để chỉ việc khiếu nại của các cá nhân hoặc tổ chức nhằm hướng tới lợi ích của họ trong lĩnh vực đất đai.

Theo quy định của pháp luật, công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại (Điều 162 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai), bao gồm:

* Quyết định hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại, cụ thể:

+ Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;

+ Quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư;

+ Quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất;

* Hành vi hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại là hành vi của cán bộ, công chức nhà nước khi giải quyết công việc thuộc phạm vi quy định như đã nêu ở trên.

- Khái niệm GQKN về đất đai

Giải quyết khiếu nại về đất đai được hiểu là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, đánh giá đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai có đúng pháp luật hay không, từ đó đưa ra các giải pháp xử lý phù hợp.

Như vậy, GQKN về đất đai bao gồm các công việc: Xác minh để làm rò các tình tiết sự việc; kết luận về nội dung khiếu nại, trong đó xác định rò

khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đúng, đúng một phần hoặc sai toàn bộ; căn cứ vào quy định của pháp luật xử lý từng vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại từ đó quyết định giữ nguyên, sửa đổi hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính bị khiếu nại, chấm dứt quyết định hành chính bị khiếu nại; quyết định việc bồi thường thiệt hại cho người khiếu nại (nếu có) hoặc giải quyết các vấn đề cụ thể khác trong nội dung khiếu nại liên quan đến đất đai.

Yêu cầu của việc GQKN về đất đai là phải tuân theo đúng quy định của pháp luật; tức là phải đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết; trong đó việc xác định đúng cơ quan có thẩm quyền là vấn đề rất quan trọng.

- Đặc điểm của GQKN về đất đai

Thứ nhất, GQKN về đất đai phải bảo đảm nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân cho Nhà nước thống nhất quản lý. Kiên quyết bảo vệ những thành quả cách mạng về ruộng đất, đồng thời khắc phục kịp thời đúng pháp luật những trường hợp đã xử lý sai trái hoặc xử lý không đúng.

Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải nắm vững quan điểm lấy dân làm gốc, phải dựa vào dân, bàn bạc dân chủ công khai quỹ đất với dân để giải quyết và phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ trong nội bộ nhân dân để giúp nhân dân tìm ra giải pháp, không gò ép mệnh lệnh. Đề cao vai trò của các tổ chức, đoàn thể để hòa giải các vụ khiếu nại có hiệu quả.

Thứ ba, GQKN về đất đai nhằm mục đích phát triển sản xuất, ổn định và từng bước cải thiện đời sống, nhân dân.

Thứ tư, GQKN về đất đai một mặt phải tuân thủ quy định của Luật khiếu nại, mặt khác phải tuân thủ quy định của Luật đất đai. Đây là điểm đặc biệt trong GQKN đất đai so với GQKN hành chính nói chung. Theo quy định của pháp luật và qua thực tiễn GQKN về đất đai cho thấy, các cơ quan có thẩm quyền thường phải GQKN về: Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi

đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất.

Thứ năm, GQKN về đất đai được quy định theo phân cấp quản lý, bao gồm từ cấp huyện lên cấp tỉnh; bên cạnh đó người dân còn có thể khiếu nại ra tòa án mà không cần phải chờ GQKN lần hai. Chẳng hạn, trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện hoặc hết thời hạn GQKN mà không nhận được quyết định GQKN thì có quyền khởi kiện ra Tòa án nhân dân hoặc khiếu nại đến UBND cấp tỉnh.


1.2. ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI


1.2.1. Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp luật

1.2.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật

- Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức thực hiện pháp luật và bao giờ cũng có sự tham gia của cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước có thẩm quyền. Nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền để ban hành các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Thông qua đó, hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất: Các quyền của chủ thể pháp luật được thực hiện và được bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật được xử lý nghiêm minh và kịp thời. Hoạt động áp dụng pháp luật diễn ra hàng ngày trong các cơ quan nhà nước và chỉ do nhân viên nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Việc áp dụng pháp luật thường do cơ quan nhà nước được giao quyền hoặc người có thẩm quyền tiến hành theo thủ tục hành chính như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyết định giao đất hoặc thu hồi đất...

- Hình thức áp dụng pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, do có sự can thiệp của Nhà nước buộc các chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật làm

cho các quy định của pháp luật đều được thực hiện chính xác, triệt để. Qua đó tác động vào các quan hệ xã hội, vào cuộc sống đạt hiệu quả cao nhất. Áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:

Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước hoặc áp dụng các chế tài pháp luật đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.

Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được. Trường hợp này, bên bị vi phạm có quyền khiếu nại hoặc đề nghị Tòa án can thiệp để đưa ra phán quyết buộc bên vi phạm phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Trong một số quan hệ pháp luật, Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên hoặc xác nhận sự tồn tại một số sự việc, sự kiện thực tế.

Như vậy, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính thực tiễn cụ thể và sinh động do cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước được giao quyền tiến hành theo một thủ tục nhất định do pháp luật quy định và đồng thời là hình thức thực hiện pháp luật, là thủ tục bắt buộc để Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật. Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, là thủ tục bắt buộc để các cơ quan nhà nước thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi phạm pháp luật; khi phải giải quyết các tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể hoặc khi Nhà nước cần phải can thiệp để thực thi các quyền của chủ thể theo quy định của pháp luật. Áp dụng pháp luật có vai trò rất to lớn và rất quan trọng trong việc thực hiện quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng.

1.2.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật

Theo lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, áp dụng pháp luật có bốn đặc điểm chủ yếu sau:

Một là, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước.

- Hoạt động áp dụng pháp luật do những chủ thể có thẩm quyền tiến hành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn cđa họ. Phù hợp với thẩm quyền của mình, mỗi chủ thể chỉ được phép tiến hành một số hoạt động áp dụng pháp luật nhất định. Trong quá trình áp dụng pháp luật các cơ quan nhà nước hay những người có thẩm quyền phải xem xét, cân nhắc thận trọng và dựa trên những quy phạm pháp luật đã được xác định để ra các quyết định cụ thể.

Trong một số trường hợp cá biệt, khi được Nhà nước ủy quyền, một số tổ chức xã hội cũng có thể tiến hành áp dụng pháp luật.

- Áp dụng pháp luật được xem là sự tiếp tục thể hiện ý chí nhà nước trong quá trình điều chỉnh pháp luật. Do vậy, việc áp dụng pháp luật không những phải phù hợp với pháp luật thực định mà còn phải phù hợp với chủ trương, chính sách của Nhà nước trong mỗi giai đoạn nhất định.

- Đối với một số trường hợp, hoạt động áp dụng pháp luật có thể được tiến hành theo ý chí đơn phương chủ thể có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thó bị áp dụng pháp luật. Pháp luật cũng quy định đối với một số trường hợp việc áp dụng pháp luật chỉ được tiến hành khi có yêu cầu của của tổ chức hay cá nhân nhất định theo quy định của pháp luật.

- Áp dụng pháp luật có tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể có liên quan. Quyết định áp dụng pháp luật mang tính bắt buộc phải thực hiện đối với những chủ thể có liên quan. Trong những trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể cưỡng chế thi hành quyết định áp dụng pháp luật đã có hiệu lực.

Hai là, áp dụng pháp luật là hoạt động phải tuân theo những hình thức và thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.

Do tính chất quan trọng và phức tạp của áp dụng pháp luật, chủ thể bị áp dụng pháp luật có thể được hưởng những lợi ích rất lớn, nhưng cũng có thể phải chịu những hậu quả bất lợi rất nghiêm trọng nên trong pháp luật luôn có sự xác định rò ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình áp dụng pháp luật. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính thủ tục đó để tránh những sự tùy tiện có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đúng, không chính xác.

Hình thức thể hiện của hoạt động áp dụng pháp luật là văn bản áp dụng pháp luật do cơ quan nhà nước, người và tổ chức có thẩm quyền ban hành có tính chất cá biệt, một lần đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể trong những trường hợp xác định, phải phù hợp với pháp luật và dựa trên những quy phạm pháp luật cụ thể; được thể hiện trong những hình thức pháp lý xác định như bản án, quyết định, lệnh...

Văn bản áp dụng pháp luật có hai loại: Văn bản xác định quyền và nghĩa vụ của chủ thể và văn bản bảo vệ pháp luật chứa đựng những biện pháp trừng phạt, cưỡng chế đối với những cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật.

Ba là, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh mang tính cá biệt, cụ thể đối với những quan hệ xã hội nhất định.

Mục đích của áp dụng pháp luật cá biệt hóa các quy phạm pháp luật trong những điều kiện cụ thể. Quy tắc xử sự chung trong pháp luật thông qua hoạt động áp dụng pháp luật sẽ được cá biệt hóa một cách chính xác thành quy tắc xử sự cụ thể theo nguyên tắc không được trái với quy tắc xử sự chung. Do đó, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh mang tính cá biệt, cụ thể đối với những quan hệ xã hội nhất định.

Bốn là, áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo trong phạm vi quy định của pháp luật.

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí