Nhu Cầu Vốn Và Định Hướng Phát Triển Hoạt Động Huy Động Vốn Tại Nhntvn

nguồn vốn. Tốc độ tăng trưởng vốn VND nhanh hơn tốc độ tăng trưởng vốn USD. Cơ cấu nguồn vốn VND/Ngoại tệ đã được cải thiện đáng kể, từ 27%/73% năm 2001 lên tới 40%/60% năm 2004 và đạt43%/57% năm 2005. Vốn huy động từ dân cư có sự tăng trưởng với tốc độ vượt bậc, chiếm gần 40% trong tổng nguồn vốn. Vốn huy động từ tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng khá cao, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 23%. Đây là một nguồn vốn với chi phí rẻ của NH. Chất lượng dịch vụ được cải thiện đáng kể. Bên cạnh đó, nguồn vốn trung và dài hạn cũng đã tăng đều, liên tục trong từng năm, tạo điều kiện cho NH mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh, đầu tư và cho vay các dự án lớn trung, dài hạn.

1.2. Quy mô và tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn

Quy mô và tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động liên tục tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh. NHNTVN đã đổi mới căn bản về cơ chế huy động vốn đi liền với việc đổi mới phương pháp quản lý vốn tập trung, chủ động tìm kiếm các biện pháp thu hút vón và trở thành một trong những NHTM nhà nước có nguồn vốn lớn nhất Việt Nam. Tính đến hết tháng 6/2006, tổng nguồn vốn của NHNTVN ước đạt trên 143.000 tỷ đồng. Có được kết quả này là do NHNTVN luôn nắm bắt tốt thời cơ, phản ứng nhanh nhạy với những biến động của thị trường, có hướng đi đúng đắn theo định hướng của ngành, biết khắc phục những hạn chế và phát huy lợi thế vốn có của mình.

1.3. Hoạt động điều hành lãi suất huy động vốn

Hoạt động điều hành lãi suất đã có một bước tiến quan trọng. Trên cơ sở bám sát tình hình cung cầu vốn trên thị trường, NHNTVN rất linh hoạt trong việc đưa ra và sử dụng công cụ lãi suất cạnh tranh để có thể duy trì được vị thế của NH trước sự cạnh tranh gay gắt của các NH khác.

NHNTVN luôn là NH đi đầu trong việc định hướng lãi suất trên thị trường. Đây là một trong những ưu điểm nổi bật của NHNTVN. NH đã rất

linh hoạt và nhạy bén trong việc đưa ra và sử dụng công cụ lãi suất này xét trên cả hai khía cạnh mức lãi suất cạnh tranh và thời điểm đưa ra quyết định thay đổi lãi suất huy động. Những động thái trong việc thay đổi lãi suất huy động của NH luôn là mối quan tâm của các NHTM khác và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mức lãi suất chung của toàn hệ thống. Đồng thời NHNTVN cũng đổi mới quy chế quản lý vốn tập trung, một mặt tạo điều kiện cho các chi nhánh có thể gửi vay hội sở chính với kỳ hạn và lãi suất linh hoạt hơn, theo tín hiệu và diễn biến thị trường. Mặt khác việc online toàn hệ thống đã cung cấp cho khách hàng gửi tiền một tiện ích rất lớn, đó là: gửi một nơi, rút nhiều nơi.

1.4. Phát hành các giấy tờ có giá

NHNTVN đã phát hành thành công kỳ phiếu VND với nhiều kỳ hạn 6, 9, 12 tháng, trái phiếu VND kỳ hạn 2 năm; phát hành kỳ phiếu ngoại tệ 6, 9, 12 tháng, chứng chỉ tiền gửi, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư trung và dài hạn đang tăng cao. Ngày 14 và 15 năm 2005, NHNTVN đã phát hành thành công 1.365 tỷ trái phiếu tăng vốn, là bước khởi đầu quan trọng cho tiến trình cổ phần hoá NH. Bên cạnh đó, NH cũng mở rộng việc áp dụng sản phẩm đầu tư tự động trên cơ sở nền tảng công nghệ hiện đại, đẩy mạnh việc huy động qua hình thức tài khoản cá nhân cùng với các dịch vụ thẻ, phonebanking...

1.5. Quản trị thanh khoản

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Trong năm vừa qua, mặc dù thị trường vốn tiền đồng có nhiều biến động thất thường, song với phương án dự phòng thanh khoản ở mức 2.500 -

3.000 tỷ đồng tiền gửi tại NHNN và 5.000 tỷ trái phiếu kho bạc dự phòng, NHNTVN luôn giữ được thế chủ động trong mọi tình huống, ngoài ra còn kịp thời hỗ trợ một số NH bạn.

Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam - 9

Vào thời điểm cuối năm, tiền gửi của các TCKT tại NH giảm mạnh (giảm khoảng 3.000 tỷ đồng vào cuối năm 2005), cùng với tín dụng tăng

trưởng gần 1.000 tỷ đồng. NHNTVN đã phải liên tục bán quay vòng số vốn

5.000 tỷ trái phiếu kho bạc dự phòng và bán 20 triệu USD để đảm bảo nguồn bù đắp cho các dòng tiền này. Bên cạnh đó, NHNTVN đã duy trì được mối quan hệ tốt với các NH cổ phần, liên doanh, nước ngoài, đồng thời phối hợp tốt với các NHTM quốc doanh khác để có sự hỗ trợ hai chiều tại những thời điểm nhạy cảm như vậy.

Tóm lại, NHNTVN đã chuẩn bị rất tốt nguồn dự phòng thanh khoản, đảm bảo tính thanh khoản cao cho các công cụ huy động vốn, góp phần đáng kể củng cố niềm tin của khách hàng gửi tiền đối với NHNTVN.

1.6. Một số kết quả đạt được khác

NHNTVN đã áp dụng một loạt các biện pháp phối hợp khác để tăng cường huy động vốn như tăng cường chăm sóc khách hàng thông qua sự phối hợp tích cực giữa các phòng, ban để đưa ra giải pháp sản phẩm tổng thể cho nhiều khách hàng lớn.

Việc mở thêm nhiều chi nhánh, quầy giao dịch của NHNTVN đã tạo thuận lợi cho khách hàng gửi, rút tiền. NH cũng chú trọng hơn đến các hoạt động bán lẻ như phát triển mạng lưới ATM, đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. Đặc biệt năm 2002, NHNTVN đã triển khai dịch vụ VCB-online và hệ thống giao dịch tự động đầu tiên tại Việt Nam cho phép khách hàng gửi tiền một nơi rút tiền nhiều nơi. Chất lượng phục vụ khách hàng ngày càng được chú trọng : thái độ, cung cách giao tiếp của nhân viên NH thân thiện đã tạo được ấn tượng tốt trong cách nhìn nhận của khách hàng. Ngoài ra, NHNTVN còn áp dụng chính sách khách hàng năng động, thành lập phòng khách hàng đặc biệt để chuyên sâu nghiên cứu, phân tích nhu cầu khách hàng. Đây được xem là ưu điểm, nét khác biệt độc đáo của NHNTVN.

2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.1. Hạn chế

Bên cạnh những thành công trên, hoạt động huy động vốn của NHNTVN vẫn còn có những hạn chế chủ yếu sau:

Thứ nhất, thực trạng tài chính còn yếu kém xét trên khía cạnh vốn tự có thấp. Hệ số an toàn vốn thấp hơn nhiều so với chuẩn quốc tế là 8%, đã hạn chế khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh, làm giảm uy tín của NH trên thị trường tài chính quốc tế. Thực trạng tài chính không tốt còn ảnh hưởng mạnh đến quy mô hoạt động của NH đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ tại khắp các quốc gia trên thế giới.

Thứ hai, tăng trưởng nguồn vốn chưa đáp ứng được nhu cầu về tăng trưởng tín dụng. Vốn huy động bình quân tăng trưởng với mức 23% trong khi dư nợ cho vay tăng trưởng bình quân với mức 31,5%. Thị phần huy động chưa tương xứng với vị thế và khả năng của NH. Huy động vốn phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở các chi nhánh phía Bắc.

Thứ ba, mặc dù đã có những chuyển biến theo hướng tích cực, nhưng cơ cấu vốn của NH vẫn còn chưa phù hợp. Cơ cấu vốn huy động thể hiện sự mất cân bằng về kỳ hạn. Vốn huy động chủ yếu là vốn ngắn hạn. Vốn trung và dài hạn mặc dù đã có sự chuyển biến nhưng vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong khi vốn huy động không kỳ hạn và kỳ hạn dưới một năm lại chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn. NH chỉ được phép dùng 30% vốn ngắn hạn để đầu tư trung và dài hạn. Điều này dẫn đến nguồn vốn ngắn hạn thì thừa mà nguồn vốn trung và dài hạn lại thiếu, làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH. Vốn huy động còn thể hiện sự mất cân đối về loại tiền. Tỷ trọng huy động bằng ngoại tệ vẫn còn cao và chủ yếu bằng USD. Phần lớn nguồn vốn này được gửi tại NH nước ngoài nên dễ bị tác động bởi các yếu tố về chính sách tiền tệ, tỷ giá ngoại hối của các quốc gia khác.

Tiếp tục có sự mất cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Tăng trưởng nguồn vốn chưa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng tín dụng. Tín dụng trung, dài hạn vẫn tiếp tục tăng cao hơn so với

vốn huy động trung và dài hạn. Sự mất cân đối này thể hiện ở chênh lệch giữa tín dụng trung, dài hạn và huy động vốn trung, dài hạn ngày càng lớn ở cả VND và USD; đặc biệt là đối với VND, khe hở kỳ hạn ngày càng mở rộng ra (năm 2004 chênh lệch âm là 4.700 tỷ đồng, năm 2005 lên tới 5205 tỷ đồng)

Tính bất ổn của nguồn vốn: Như ta đã biết, trong tổng nguồn vốn của NHNTVN, tiền gửi của các TCKT chiếm tỷ trọng lớn khoảng 70%, trong đó vốn không kỳ hạn chiếm tỷ trọng 57%. Điều này một mặt tạo lợi thế chi phí rẻ, nhưng mặt khác làm tăng tính bất ổn định của nguồn. Bởi tiền gửi giao dịch của các TCKT có tình thời vụ, và có thể được rút ra bất cư lúc nào với một khối lượng lớn. Đặc biệt là vốn VND thường xuyên biến động với tốc độ lớn, 6 tháng đầu năm và tháng 12 là những tháng biến động mạnh nhất trong năm; có ngày cao điểm riêng tổ chức kinh tế có thể giảm 2.000 tỷ/ngày, trong khi mức tăng giảm bình quân 1 tháng thường ở mức 1.500 - 3.000 tỷ đồng. Chính tính không ổn định của nguồn sẽ gây khó khăn cho NH trong hoạt động cho vay và đầu tư. Do vậy, NHNTVN cần phải có lượng dự trữ thanh khoản đảm bảo nhu cầu thanh toán của khách hàng.

Cuối cùng là sự lệ thuộc vào các khách hàng lớn như Bảo Việt, Petrolimex, Vietnam Airline... mà nhiều khi sự cạnh tranh từ các TCTD để giành giật khách hàng hoặc chính sự thay đổi của bản thân họ đã làm rủi ro và chi phí hoạt động của NH tăng cao. Mọi biến động trong hoạt động kinh doanh của các tổng công ty trên đều tác động mạnh mẽ đến hoạt động huy động vốn của NHNTVN.

2.2. Nguyên nhân

2.2.1. Nguyên nhân khách quan

Nguyên nhân trước tiên ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHNTVN là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng... Thị phần vốn huy động của NH đang có nguy cơ bị giảm sút, đặc biệt đối với vốn huy động ngoại tệ. Xu hướng chuyển dịch các giao dịch

nghiệp vụ sang các NH liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đồng nghĩa với việc phân chia lại thị trường, nguồn vốn theo hướng bất lợi cho NHNTVN.

Bên cạnh đó, thị trường tài chính chưa phát triển, đặc biệt là thị trường vốn và thị trường chứng khoán. Phần lớn các doanh nghiệp chưa thể vay vốn dài hạn từ thị trường này. Do vậy, áp lực vốn trung và dài hạn đặt lên vai NH. Hơn nữa, thị trường tài chính chưa phát triển làm giảm tính lỏng của các công cụ nợ do NH phát hành, giảm tính hấp dẫn của công cụ nợ từ đó giảm lượng huy động vốn.

Nền kinh tế Việt Nam còn chưa ổn định, tỷ lệ lạm phát cao làm cho lãi suất thực của các khoản tiền gửi thậm chí là âm. Điều đó đã tác động đến tâm lý người gửi tiền khiến họ không yên tâm và không muốn gửi tiền vào NH, nhất là đối với những khoản tiền gửi kỳ hạn dài. Điều này làm cho hoạt động huy động vốn có kỳ hạn của NHNTVN gặp nhiều khó khăn hơn.

Hệ thống văn bản pháp luật chưa thật đồng bộ, thống nhất và chưa bắt kịp với sự chuyển biến của nền kinh tế thị trường. Các quy định nhiều khi còn cứng nhắc và bó buộc các hoạt động của NH.

2.2.2. Nguyên nhân chủ quan

NHNTVN còn hạn chế về mặt số lượng các chi nhánh và các chi nhánh của NH chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. So với các NHTM quốc doanh khác, NHNTVN là NH có số lượng chi nhánh trên toàn quốc thấp nhất. Không phải càng có nhiều chi nhánh thì hiệu quả huy động vốn càng cao. Tuy nhiên, với số lượng chi nhánh hiện nay của NH đã phần nào hạn chế khả năng huy động vốn của NH.

Nghiệp vụ Marketing của NHNTVN được tiến hành chưa đạt hiệu quả cao. Các hình thức quảng cáo cũng như tìm hiểu tâm lý, nhu cầu của khách hàng chưa được chú trọng. Đây cũng là một trong những nguyên nhân từ phía NH gây ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động huy động vốn của NH.

Các hình thức huy động vốn chưa thực sự đa dạng, hầu hết vẫn mang tính truyền thống, chưa mang tính cạnh tranh cao. Mặc dù NHNTVN đã có các đợt phát hành kỳ phiếu, trái phiếu nhưng lãi suất chưa thật linh hoạt. Kỳ phiếu và trái phiếu mới chỉ có lãi suất cố định, chưa có đảm bảo trượt giá nên hạn chế sức hấp dẫn đối với người gửi tiền. Sự phát triển của thị trường đòi hỏi NH phải cung cấp một danh mục đa dạng các dịch vụ liên quan.

Ngoài ra, với vị thế là một NH có truyền thống và uy tín trong lĩnh vực thanh toán, NHNTVN có số lượng tiền gửi thanh toán hay tiền gửi ngoại tệ của các TCKT là rất lớn. Một mặt, nó có ưu thế chi phí nguồn vốn rẻ nhưng mặt khác nó cũng tạo nên sự bất ổn định trong nguồn vốn huy động của NH khi vốn huy động từ các nguồn khác của NH chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NH.

Nhìn chung, sau 5 năm thực hiện Đề án Tái cơ cấu Ngân hàng, NHNTVN đã có những thành công đáng kể trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Tuy vẫn còn một số hạn chế trong công tác huy động vốn nhưng với những chính sách được đưa ra kịp thời và chính xác, nguồn vốn của NH đã được cải thiện cả về quy mô lẫn chất lượng. Tính đến hết tháng 6 năm 2006, tổng nguồn vốn NHNTVN ước đạt

143.000 tỷ đồng. Hoạt động huy động vốn vượt mức chỉ tiêu đề ra trong mỗi năm. Các hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng, chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng cao với sự ứng dụng công nghệ vào hoạt động của NH. Cơ cấu nguồn vốn có sự chuyển dịch theo xu hướng tích cực - tăng tỷ trọng vốn VND và tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn. Có thể nói, năm 2005 có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển lâu dài và bền vững của NH. NHNTVN đã khép lại 5 năm thực hiện Đề án Tái cơ cấu, đồng thời bước vào giai đoạn gấp rút chuẩn bị các điều kiện về vật chất và tinh thần cho quá trình cổ phần hoá.

CHƯƠNG III‌

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM

I. NHU CẦU VỐN VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNTVN

Với mục tiêu chiến lược trở thành một tập đoàn tài chính hàng đầu Việt Nam và trở thành NH tầm cỡ quốc tế ở khu vực trong thập kỉ tới, hoạt động đa năng, kết hợp với điều kiện kinh tế thị trường, thực hiện tốt phương châm “ Luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt ”, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành NH Việt Nam nói riêng đang trong quá trình hội nhập, NHNTVN đã xây dựng cho mình một chiến lược phát triển “ Vietcombank - tầm nhìn 2010 ” với những nội dung chính sau đây:

Thứ nhất, nâng cao năng lực, nâng cao sức cạnh tranh bằng việc phấn đấu nâng chỉ số CAR đạt 10 - 12 % và các chỉ số tài chính quan trọng khác theo chuẩn quốc tế

Thứ hai, hoàn thành quá trình tái cơ cấu NH để có một mô hình tổ chức hiện đại, khoa học, phù hợp với mục tiêu và đảm bảo hiệu quả kinh doanh, kiểm soát được rủi ro, có khả năng cung ứng các sản phẩm dịch vụ NH đa dạng, tổng hợp, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường và nhu cầu của khách hàng thuộc mọi thành phần.

Thứ ba, phát triển và mở rộng các kênh phân phối các sản phẩm dịch vụ qua việc thiết lập các chi nhánh cấp 1, 2, các phòng giao dịch, lắp đặt một mạng lưới rộng khắp các máy ATM cùng với hàng ngàn đơn vị chấp nhận thẻ ở hầu hết các tỉnh thành trên cả nước, đáp ứng nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả việc sử dụng các sản phẩm của khách hàng.

Thứ tư, tiếp tục tăng cường hơn nữa hoạt động đối ngoại - là mảng hoạt động truyền thống mà cũng là thế mạnh của NHNTVN, thông qua việc tăng

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 06/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí