Tiêu Chí Đánh Giá Tác Động Tổng Hợp Của Giải Pháp Tài Chính Đến Phát Triển Du Lịch Bền Vững


Một là, du lịch là ngành kinh tế, có tính chất liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, SPDL sẽ có tính quyết định đến số lượng, thời gian cũng như mức độ chi tiêu của khách du lịch. Do vậy, chi NSNN cho phát triển SPDL, đặc biệt là SPDL đặc thù của địa phương phải do Nhà nước quyết định nhằm phù hợp với định hướng PTDL và KT - XH của địa phương.

Hai là, SPDL mang tính đặc thù của địa phương phụ thuộc vào tài nguyên du lịch. Mỗi địa phương sẽ có những tài nguyên du lịch nổi trội khác nhau, do vậy nếu không có sự đầu tư của Nhà nước thì SPDL sẽ không phát triển đúng định hướng với những lợi thế của địa phương.

Ba là, muốn PTDL bền vững, thì SPDL phải phát triển theo đúng định hướng của Nhà nước. Tuy nhiên, nếu để cho kinh tế tư nhân tự đầu tư vào dễ dẫn đến đầu tư tràn lan, không có quy hoạch ảnh hưởng đến bảo vệ tài nguyên du lịch trong tương lai. Do đó, chi NSNN phải đi đầu trong việc phát triển SPDL đặc thù của địa phương để từ đó thu hút, lôi kéo nguồn vốn từ các thành phần kinh tế khác vào phát triển SPDL đúng quy hoạch, định hướng Nhà nước đưa ra.

Cơ chế tác động: Chi NSNN sẽ tác động lên việc phát triển đa dạng các SPDL đặc thù gắn với tài nguyên du lịch là tiềm năng, thế mạnh của địa phương, trên cơ sở đó làm tiền đề cho việc đầu tư của các CSKDDL nhằm đa dạng các SPDL của riêng mình, góp phần gia tăng doanh thu và lợi nhuận cho các CSKDDL. Như vậy, chi NSNN đã tác động gián tiếp đến các CSKDDL trong việc tạo ra các SPDL của riêng mình.

Cơ chế phân bổ: Chi NSNN đến PTDL bền vững thông qua chi NSNN cho việc xây dựng các đề án, dự án phát triển SPDL gắn với tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Để hình thành các SPDL này chi NSNN cần phân bổ cho việc khảo sát, nghiên cứu, xây dựng và triển khai các đề án nhằm đa dạng hoá, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của SPDL địa phương. Chi NSNN đầu tư cho SPDL được cấp phát theo đúng kế hoạch và tiến độ thực hiện các nội dung đầu tư của dự án, đề án phát triển SPDL. Với việc phát triển các SPDL này sẽ là cơ sở để thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài vào PTDL của địa phương.

Giải pháp chi NSNN để phát triển các SPDL được thể hiện thông qua các nội dung như sau:


- Chi NSNN cho SPDL biển, đảo: SPDL biển đảo là loại hình SPDL được phát triển dựa trên những tiềm năng về biển, đảo diễn ra trong các vùng có tiềm năng về biển, đảo hướng tới thoả mãn nhu cầu của con người về vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng, tham quan, tắm biển… Thực tiễn ở các địa phương có tiềm năng phát triển SPDL biển, đảo hiện nay cho thấy, SPDL biển, đảo đang còn nghèo nàn, thiếu tính hấp dẫn, chưa đa dạng, chưa có sự độc đáo, nổi bật giữa các địa phương và giá trị mang lại thấp. Do vậy, chi NSNN cho SPDL biển, đảo cần tập trung cho các hạng mục mới có tính hấp dẫn, độc đáo, tạo diện mạo mới, nâng cao tính cạnh tranh và mang lại nguồn thu lớn cho NSNN. Theo đó, chi NSNN cần tập trung vào các nội dung: chi NSNN quy hoạch, khảo sát, nghiên cứu xây dựng các đề án PTDL biển… để từ đó thu hút nguồn vốn từ bên ngoài vào phát triển hệ thống CSLT, khu vui chơi giải trí cao cấp; chi NSNN hỗ trợ cho các SPDL bổ trợ như thuyền buồm, lướt ván, mô tô nước, dù bay, khám phá đại dương,… nhằm phát triển SPDL biển đảo đa dạng, đẳng cấp, có sức cạnh tranh với các địa phương khác trong nước và thế giới.

- Chi NSNN cho SPDL văn hoá, lịch sử: Phát triển SPDL văn hoá, lịch sử góp phần giới thiệu về truyền thống lịch sử, văn hoá dân tộc, đất nước và con người Việt Nam. Hơn nữa, phát triển SPDL văn hoá, lịch sử góp phần bảo tồn, khai thác những giá trị di sản văn hoá, lịch sử truyền thống của dân tộc cho những thế hệ mai sau. Thực tiễn ở các địa phương hiện nay cho thấy, chi NSNN phát triển SPDL văn hoá, lịch sử đang còn thấp dẫn đến các SPDL này qua thời gian đã bị xuống cấp trầm trọng, không còn vẹn nguyên giá trị hoặc phục dựng sai quy cách, làm mới di sản... Do vậy, cần tăng cường chi NSNN cho các hạng mục di sản văn hoá, di tích lịch sử lâu đời… đã bị xuống cấp trầm trọng, mai một, không còn vẹn nguyên giá trị để từ đó phục hồi nguyên vẹn giá trị SPDL văn hoá, lịch sử để khách du lịch có thể hiểu đầy đủ giá trị của SPDL văn hoá, lịch sử của địa phương.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 274 trang tài liệu này.

- Chi NSNN cho SPDL sinh thái, cộng đồng: SPDL sinh thái, cộng đồng là SPDL dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Thực tiễn ở các địa phương hiện nay, các SPDL sinh thái, cộng động phát triển đang còn manh mún, tự phát vì điều kiện kinh tế khó khăn của những người làm du lịch phần đa đều là dân tộc thiểu số. Do vậy, mà sự quan tâm, đầu tư của Nhà


Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy phát triển du lịch bền vững tỉnh Thanh Hóa - 9

nước có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo lực đẩy cho SPDL sinh thái, cộng động của địa phương phát triển. Cần tăng cường chi NSNN cho những khu, điểm có tiềm năng phát triển SPDL sinh thái, cộng đồng gắn với các địa phương đang còn khó khăn chưa có nhiều điều kiện cũng như tiềm năng phát triển các SPDL khác. Với cơ chế này chi NSNN cần tập trung phân bổ cho các hạng mục như: chi NSNN cho việc thiết kế xây dựng bản quy hoạch chi tiết phát triển SPDL sinh thái cộng đồng; chi NSNS cho việc tu bổ cảnh quan; chi NSNN hỗ trợ trang thiết bị ban đầu cho người dân địa phương… nhằm tạo công ăn việc làm cũng như mang lại thu nhập cho cộng đồng dân cư địa phương, giúp thực hiện mục tiêu giảm nghèo hiệu quả.

- Chi NSNN cho phát triển SPDL bổ trợ khác: Ngoài các SPDL chính của địa phương thì các SPDL bổ trợ có vai trò rất quan trọng trong việc tăng tính hấp dẫn của các SPDL truyền thống, kéo dài thời gian lưu trú và gia tăng thu nhập của địa phương. Thực tiễn ở các địa phương cho thấy, chi NSNN mới chỉ quan tâm đầu tư vào các SPDL truyền thống như: SPDL biển đảo, văn hoá, sinh thái cộng động… mà chưa thực sự quan tâm đến các SPDL bổ trợ khác. Các SPDL làng nghề trong thời gian qua đã đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cho các SPDL truyền thống, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao động ở địa phương. Tuy nhiên chi NSNN hỗ trợ cho các sản phẩm này vẫn đang còn thấp, dẫn đến các SPDL làng nghề phát triển thiếu chiến lược, không có sự chuyên môn hoá, thiếu sức cạnh tranh. Do vậy, cần tăng cường chi NSNN cho việc phát triển các SPDL làng nghề có chất lượng, đặc sắc, được nhiều người ưa chuộng gắn liền với các SPDL chính nhằm hỗ trợ cho SPDL được phong phú và đa dạng. Chi NSNN cho các làng nghề cần ưu tiên chi cho các hạng mục như: cơ sở hạ tầng làng nghề, khu trưng bày giới thiệu sản phẩm, xây dựng mô hình sản xuất, đào tạo làng nghề… nhằm hỗ trợ cho các làng nghề có điều kiện để nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ và hỗ trợ đắc lực cho SPDL truyền thống.

Ngoài SPDL làng nghề thì các địa phương có nguồn thu NSNN cao cũng cần tăng cường chi NSNN cho các sản phẩm bổ trợ khác như: công trình đài phun nước, khu vui chơi giải trí, làng cổ, phố đi bộ, con đường tình yêu… nhằm đa dạng và tạo ra diện mạo mới cho SPDL, từ đó tăng tính hấp dẫn của SPDL chính.

Thứ hai, chính sách thuế khuyến khích phát triển sản phẩm du lịch

Để hỗ trợ các làng nghề du lịch phát triển thì thông qua chính sách thuế tác

động đến các yếu tố đầu vào của cơ sở làng nghề du lịch như chính sách miễn, giảm


thuế (thuế GTGT) đối với các cơ sở làng nghề du lịch mới thành lập, cơ sở sản xuất nhỏ và vừa có doanh thu hàng năm ở ngưỡng nhất định và có số lao động bình quân năm theo mức quy định, từ đó hạ giá thành sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh cho các làng nghề du lịch, từ đó thúc đẩy SPDL làng nghề phát triển. Chính sách thuế tác động đến các yếu tố đầu ra của thị trường thông qua hoạt động khuyến khích sản xuất làng nghề như miễn, giảm thuế TNDN đối với cơ sở sản xuất làng nghề du lịch ở các vùng núi xa xôi hẻo lánh, các vùng có điều kiện KT -XH khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn.

1.2.3. Tiêu chí đánh giá tác động tổng hợp của giải pháp tài chính đến phát triển du lịch bền vững

Để xác định hiệu quả tác động của các giải pháp tài chính phải được đánh giá một cách đầy đủ trên nhiều khía cạnh và tính đến các tác động tổng hợp, nó phản ánh mức độ đáp ứng yêu cầu về nguồn vốn cho PTDL bền vững. Có thể đánh giá kết quả tổng hợp của giải pháp tài chính bằng các tiêu chí sau:

1.2.3.1. Tiêu chí định tính

Do việc đánh giá kết quả của các giải pháp tài chính đến PTDL bền vững có nhiều yếu tố không thể lượng hoá được nên phải xem xét định tính thông qua mức độ đáp ứng yêu cầu của các quan điểm, mục tiêu, chiến lược, quy hoạch PTDL bền vững của quốc gia, địa phương. Theo cách tiếp cận này, có một số tiêu chí định tính thường được sử dụng, cụ thể:

- Tính hiệu lực của chính sách: thể hiện ở mức độ có đạt được mục tiêu đề ra của chính sách hay không? Mức độ tác động, ảnh hưởng của chính sách đó trên thực tế, có làm thay đổi thực tế theo hướng mong muốn của chính sách.

- Tính hiệu quả của chính sách: trong quá trình xây dựng chính sách đòi hỏi phải xác định kết quả đạt được do chính sách đưa lại với chi phí đã bỏ ra. Nếu không quan tâm đến hiệu quả sẽ dẫn đến lãng phí, thất thoát tiền từ NSNN.

- Tính phù hợp của chính sách: Mỗi chính sách được xây dựng khởi nguồn từ việc xác định vấn đề: đó là nhu cầu xã hội hay mâu thuẫn xã hội; phù hợp với chiến lược phát triển KT - XH nói chung và định hướng PTDL nói riêng hay không; phù hợp với đối tượng thụ hưởng chính sách hay không? Mức độ hài lòng của đối tượng thụ hưởng.


Trong một nền kinh tế không ngừng biến đổi thì việc đánh giá tính hiệu lực, tính hiệu quả và tính phù hợp của chính sách sẽ tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng các chính sách quản lý của Nhà nước về du lịch phù hợp ở các giai đoạn tiếp theo.

1.2.3.2. Tiêu chí định lượng

Ngoài tiêu chí định tính, tiêu chí định lượng còn giúp đánh giá tổng hợp hiệu quả của việc sử dụng tổng hợp các giải pháp tài chính đến PTDL bền vững, có thể xem xét ở một số tiêu chí sau:

- Tốc độ tăng trưởng của CSHT du lịch: thể hiện ở việc tăng lên của CSHT du lịch, tốc độ tăng trưởng giá trị CSHT du lịch tăng lên thể hiện sự đầu tư từ phía Nhà nước cũng như các giải pháp tài chính từ phía Nhà nước đã tác động đến sự phát triển CSHT du lịch.

Mức tăng trưởng

CSHT du lịch

Tổng giá trị CSHT năm t - Tổng giá trị CSHT năm t-1

=

Tổng giá trị CSHT năm t-1


x 100%

t: thời gian năm thứ t

- Tốc độ tăng trưởng NNL du lịch đã qua đào tạo: Chỉ tiêu này tăng lên cho thấy các giải pháp tài chính từ phía Nhà nước đã tác động làm tăng số lượng NNL du lịch qua đào tạo của địa phương, từ đó nâng cao chất lượng SPDL của địa phương.

Mức tăng trưởng

NNL DL đã qua

đào tạo =

t: thời gian năm thứ t

Số lượng NNL du lịch qua đào tạo năm t - Số lượng NNL du lịch qua đào tạo năm t-1 Số lượng NNL du lịch qua đào tạo năm t-1


x 100%

- Kết quả của hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch: chỉ tiêu này cho thấy các giải pháp tài chính từ phía Nhà nước đã tác động làm tăng số lượng các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch, kết quả làm tăng số lượng khách du lịch và thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào du lịch. Do vậy tốc độ tăng trưởng khách du lịch và tổng số vốn đầu tư từ bên ngoài tăng lên cũng cho thấy tác động tổng hợp của giải pháp tài chính đến hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch có hiệu quả.


Mức tăng trưởng

Khách DL =

Số lượng khách du lịch năm t - Số lượng khách du lịch năm t-1

Số lượng khách du lịch năm t-1


x 100%


Mức tăng trưởng Dự án có nguồn

=

vốn từ bên ngoài

Tổng vốn đầu tư bên ngoài vào DL năm t - Tổng vốn đầu tư bên ngoài vào DL năm t-1 Tổng vốn đầu tư bên ngoài vào DL năm t-1


x 100%

t: thời gian năm thứ t

- Doanh thu từ các SPDL: Chỉ tiêu này tăng cho biết tác động tổng hợp của các giải pháp tài chính từ phía Nhà nước đến sự phát triển các SPDL đặc thù của địa phương và kết quả mang lại là doanh thu từ các SPDL đã được đầu tư này tăng lên.

Mức tăng trưởng doanh thu từ =

SPDL

Doanh thu SPDL năm t - Doanh thu SPDL năm t-1


Doanh thu SPDL năm t-1


x 100%

1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng các giải pháp tài chính phát triển du lịch bền vững

a. Nhân tố khách quan

* Điều kiện tự nhiên: PTDL bền vững chịu ảnh hưởng rất lớn bởi điều kiện tự nhiên. Nếu như điều kiện tự nhiên thuận lợi thì việc đưa ra các giải pháp tài chính từ phía Nhà nước để hỗ trợ cho hoạt động du lịch sẽ ít hơn và ngược lại, nếu điều kiện tự nhiên không thuận lợi như: mưa gió, lũ lụt, ngập úng, hạn hán kéo dài… sẽ tăng thiệt hại về CSHT, tài nguyên du lịch… Do vậy, Nhà nước phải đầu tư hỗ trợ nhiều hơn để khắc phục những rủi ro về CSHT, tu bổ tôn tạo tài nguyên du lịch… làm ảnh hưởng đến hoạt động du lịch.

* Tài nguyên du lịch: Tài nguyên du lịch là điều kiện, là yếu tố đầu vào quan trọng của hoạt động du lịch, đồng thời cũng là yếu tố tác động đến PTDL bền vững. Số lượng, chủng loại, cơ cấu, mức độ đa dạng nhiều hay ít, vị trí và khả năng khai thác thuận lợi hay không thuận lợi của tài nguyên du lịch có tác động trực tiếp và rất lớn đến việc sử dụng giải pháp tài chính mang tính chất hỗ trợ, đòn bẩy nhằm lựa chọn, phát triển SPDL đặc thù của địa phương. Ngược lại, nếu tài nguyên du lịch nghèo nàn, dàn trải, kém hấp dẫn, không thuận lợi sẽ đòi hỏi nguồn kinh phí đầu tư nhiều hơn từ phía Nhà nước để phát triển SPDL đặc thù của địa phương.

* Điều kiện kinh tế - xã hội: Điều kiện KTXH ảnh hưởng đến việc thực hiện các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy PTDL bền vững ở nhiều khía cạnh khác nhau. Địa phương nào có điều kiện KTXH tốt, có nguồn thu NSNN cao, sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy PTDL


nhanh và bền vững. Ngược lại, nếu địa phương có điều kiện KTXH khó khăn, nguồn thu NSNN thấp, sẽ không có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy PTDL bền vững.

b. Nhân tố chủ quan

* Quan điểm, chính sách hỗ trợ của chính quyền địa phương trong việc thực hiện mục tiêu PTDL bền vững: PTDL bền vững đòi hỏi cần phải có sự quyết tâm cao của chính quyền địa phương. Nếu địa phương xác định được rõ vai trò và tầm quan trọng của PTDL bền vững đối với nền kinh tế thì sẽ có những chủ trương, chính sách hỗ trợ, ưu đãi về tài chính cho PTDL mang tính đột phá nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho mục tiêu PTDL bền vững.

* Nguồn lực tài chính của địa phương: Để thực hiện mục tiêu PTDL bền vững đòi hỏi phải có một nguồn lực tài chính nhất định, đủ lớn để thực hiện các nhiệm vụ trong mục tiêu PTDL bền vững. Nguồn kinh phí này một phần do NSNN cấp hoặc từ các chủ thể khác trong nền kinh tế. Nếu nguồn kinh phí này không đủ lớn thì việc thực hiện giải pháp tài chính nhằm PTDL bền vững sẽ gặp khó khăn và khó có thể thực hiện được. Chính vì vậy, việc thực hiện các giải pháp tài chính cho PTDL bền vững phải gắn với khả năng đảm bảo kinh phí của ngân sách địa phương.

* Bộ máy tổ chức thực hiện các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy PTDL: Để PTDL bền vững thì ngoài việc xây dựng được các giải pháp tài chính đúng đắn, phù hợp thì còn phụ thuộc rất nhiều vào việc triển khai thực hiện các giải pháp tài chính của hệ thống cơ quan chính quyền địa phương liên quan. Nếu như bộ máy nhà nước hoạt động kém hiệu quả, năng lực trình độ cán bộ còn hạn chế sẽ gây khó khăn cho các chủ thể, không phát huy được tác dụng của các giải pháp tài chính.

* Khả năng tiếp nhận hỗ trợ của CSKDDL: Đối tượng tiếp nhận các chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho PTDL bền vững chủ yếu là các CSKDDL. Không phải mọi hình thức hỗ trợ đều có tác động tích cực đến các CSKDDL. Những hình thức hỗ trợ nếu phù hợp, có tác dụng kích thích đối với CSKDDL thì nguồn vốn hỗ trợ đó sẽ phát huy hiệu quả và thu hút được nguồn vốn từ bên ngoài vào PTDL bền vững. Ngược lại, nếu hình thức hỗ trợ không phù hợp đối với CSKDDL thì nguồn hỗ trợ đó sẽ không lôi kéo, thu hút được nguồn vốn từ bên ngoài, làm lãng phí nguồn vốn NSNN. Mặt khác, các chính sách hỗ trợ cũng cần tính đến khả năng tiếp cận được chính sách của các CSKDDL. Nếu năng lực nội tại của các chủ thể đáp ứng đủ yêu cầu của


chính sách thì sẽ dễ dàng tiếp cận được chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Ngược lại, nếu các chính sách đưa ra có tốt đến đâu nhưng năng lực của các chủ thể trong hoạt động du lịch không đáp ứng đủ các điều kiện được hỗ trợ thì rất khó để phát huy được tính hiệu quả của chính sách.

1.3. KINH NGHIỆM SỬ DỤNG GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG CỦA VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO TỈNH THANH HÓA

1.3.1. Kinh nghiệm của một số địa phương

1.3.1.1. Kinh nghiệm của thành phố Đà Nẵng

Thành phố Đà Nẵng là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Với lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên du lịch phong phú với đường bờ biển đẹp, nhiều di sản văn hoá thế giới và có hệ thống CSHT tương đối đồng bộ, hiện đại, đặc biệt là cảng biển và sân bay quốc tế Đà Nẵng đã tạo đà cho thành phố này có nhiều tiềm năng thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Năm 2019, thành phố Đà Nẵng đã đón 8,692 triệu lượt khách (doanh thu đạt 30.973 tỷ đồng) gấp 2,2 lần so với số lượng khách năm 2014 là 3,755 triệu lượt khách (doanh thu đạt 9.740 tỷ đồng). Có được kết quả trên là do thành phố Đà Nẵng đã nỗ lực thực hiện các giải pháp tài chính phù hợp nhằm PTDL, cụ thể:

- Giải pháp tài chính cho CSHT du lịch: thành phố Đà Nẵng đã xác định được tầm quan trọng của CSHT là yếu tố then chốt tạo động lực thúc đẩy PTDL nên đã có cơ chế, chính sách ưu tiên nguồn vốn từ NSNN cho đầu tư CSHT du lịch. Từ năm 2011, Đà Nẵng đã dành một khoản vốn lớn hàng chục tỷ đồng từ NSNN cho CSHT du lịch. Cụ thể giai đoạn 2011 - 2015 thành phố Đà Nẵng đã dành 18,78 tỷ đồng, chiếm 23% chi NSNN cho đầu tư xây dựng CSHT du lịch. Giai đoạn này chi NSNN đã tăng 177% so với giai đoạn 2006 - 2010 (6,78 tỷ đồng) và tập trung đầu tư cho các dự án công trình quan trọng như: đường giao thông tại các khu, điểm du lịch, hệ thống xử lý rác thải, điện nước… nhằm thu hút nguồn vốn vào phát triển SPDL quan trọng.

Ngoài ra thành phố Đà Nẵng luôn cố gắng hỗ trợ tối đa về mặt thủ tục trong việc thực hiện các chính sách ưu đãi từ thuế TNDN, thuế GTGT, thuế xuất khẩu, nhập khẩu… từ đó đã thu hút được nhiều dự án đầu tư CSHT du lịch có quy mô lớn như: Intercontinental resort, Furarna resort, Pullman resort, Sandy beach, Silve Shore Hoàng Đạt, Novetal… các lĩnh vực đầu tư mạnh nhất là khách sạn, khu vui chơi giải

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/04/2023