Hoàn Thiện Các Quy Định Về Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng


Để triển khai quản trị RRTD theo đúng yêu cầu của phương pháp IRB, các ngân hàng phải tiến hành qua các nội dung công việc sau:

Sau khi hoàn thành cơ sở dữ liệu về khách hàng, từ các thông tin tài chính, phi tài chính, lịch sử vay trả nợ, tổn thất... ngân hàng sẽ xây dựng, thử nghiệm và lựa chọn ra các mô hình tốt nhất để tính toán ba cấu phần PD, LGD và EAD. Nguyên nhân ba cấu phần rủi ro này có tầm quan trọng như vậy vì chúng trả lời các câu hỏi cơ bản trong tín dụng:

- PD: Xác suất vỡ nợ của khách hàng/ ngành hàng đó là bao nhiêu?

- LGD: Tỷ trọng % số dư rủi ro ngân hàng sẽ bị tổn thất khi khách hàng không trả được nợ?

- EAD: Số dư nợ vay (và tương đương) của khách hàng/ ngành hàng khi xảy ra vỡ

nợ?

Nói cách khác, với PD, LGD và EAD, hai yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu

tưởng chừng rất định tính, mà các ngân hàng thường xuyên nhắc đến trong quyết định cấp tín dụng là khả năng trả nợ và mong muốn trả nợ của khách hàng đã được lượng hóa cụ thể. Và cũng nhờ PD, LGD và EAD, hàng trăm, hàng chục các nhân tố có tác động đến khách hàng cũng như các khoản tín dụng cấp cho họ đã được tóm tắt, phản ánh chỉ qua ba cấu phần rủi ro đó.

Quan trọng hơn, dựa trên kết quả tính toán PD, LGD và EAD, các ngân hàng sẽ phát triển các ứng dụng trong quản trị RRTD trên nhiều phương diện, mà các ứng dụng chính bao gồm:

Tính toán, đo lường RRTD EL - tổn thất dự kiến và UL - tổn thất ngoài dự

kiến


- Tại cấp độ một khách hàng cụ thể:

ELi = PD x LGD x EAD

PD(1 - PD)

UL = độ lệch tiêu chuẩn của EL = j = LGD x EAD x

- Tại cấp độ danh mục đầu tư


n

ELPELi

i-1


ULiULjij i1 j1

n n

ELP

Như vậy nhờ PD, LGD và trung bình đã dự đoán, nói cách khác là UL, mới đe dọa gây ảnh hưởng đột biến tới hoạt động của ngân hàng vì nó chưa được bù đắp bằng nguồn cụ thể nào. Nếu tổn thất ngoài dự kiến xảy ra trên diện rộng của danh mục đầu tư, việc đo lường RRTD đã được lượng hóa thành hai thước đo rất cụ thể là EL và UL. Ở đây cần rất


nhấn mạnh, trái với một quan điểm sai lầm xảy ra khá phổ biến rằng EL phản ánh RRTD, trong tư duy quản trị RRTD hiện đại, chính UL mới thực sự là thước đo RRTD. Rõ ràng, kinh doanh tín dụng không bao giờ có thể tránh khỏi tổn thất và EL phản ánh "chi phí kinh doanh" trung bình mà mọi ngân hàng đều phải trả trong hoạt động của mình. Và khi chi phí đó là có thể dự đoán được và đã được bù đắp bằng nguồn dự phòng rủi ro, thì nó không còn gây "rủi ro" cho ngân hàng nữa.

Định giá khoản vay

Một ứng dụng quan trọng khác mà phương pháp IRB đã mang lại là việc đánh giá khoản vay. Giờ đây, khi các thước đo RRTD là EL và UL đã được lượng hóa, ngân hàng đã có cơ sở để xác định lãi suất cho vay theo đúng phương châm "rủi ro cao, lợi nhuận cao, rủi ro thấp, lợi nhuận thấp". Với cơ chế này, ngân hàng sẽ phòng tránh được việc cho vay không bù đắp được rủi ro, từ đó sàng lọc, lựa chọn dần các khách hàng mang lại lợi nhuận sau điều chỉnh rủi ro cao hơn cho ngân hàng và nâng cao hiệu quả đầu tư của danh mục tín dụng.

Quản trị danh mục đầu tư

Một trong những hoạt động mà Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng rất khuyến khích các ngân hàng thực hiện là quản trị danh mục đầu tư tín dụng. Mục tiêu lý tưởng là các giải pháp quản trị danh mục đầu tư phải cung cấp được công cụ để đo lường vốn kinh tế, hệ số tương quan giữa các khách hàng và tổn thất ngoài dự kiến ở cấp độ danh mục. Tuy nhiên, do độ phức tạp quá cao của việc tính toán các chỉ tiêu trên, đặc biệt là các hệ số tương quan rủi ro giữa các khách hàng và ngành hàng trong danh mục đầu tư cũng như do không sẵn có về nguồn số liệu, đến nay, các nội dung quản trị danh mục đầu tư chủ yếu bao gồm:

- Phân tích rủi ro tập trung thông qua việc đánh giá tỷ trọng danh mục đầu tư tín dụng của ngân hàng ở: (i) một khách hàng; (ii) một nhóm khách hàng liên quan; (iii) một ngành hoặc lĩnh vực kinh tế đặc biệt; (iv) một khu vực địa lý; (v) một loại tài sản bảo đảm... Theo Ủy ban Basel, mức độ tập trung cao sẽ tạo rủi ro lớn cho ngân hàng khi xảy ra những thay đổi bất lợi trong lĩnh vực tập trung tín dụng và vì vậy cần phải phòng tránh thông qua việc đa dạng hóa ở mức độ phù hợp.

- Phân tích các đặc điểm tổn thất của danh mục đầu tư: Bao gồm phân tích xác suất một nhóm khoản vay bị chuyển từ nhóm rủi ro thấp sang nhóm rủi ro cao hơn, phân tích khả năng tổn thất của một khoản vay theo tuổi thọ (quãng thời gian cho vay), phân tích tỷ lệ tổn thất của danh mục đầu tư, phân tích xác suất thay đổi đa chiều của một nhóm khoản vay...


Tính vốn tự có tối thiểu

Trong khi EL - tổn thất dự kiến - đã được bù đắp bằng nguồn dự phòng rủi ro, thì UL - tổn thất ngoài dự kiến - nguồn RRTD thực sự, được dự phòng và bù đắp bằng nguồn nào ngoài một phần lãi vay đã tính cho khách hàng. Đó chính là mức vốn tự có tối thiểu mà ngân hàng phải duy trì so với tổng tài sản có rủi ro, được tính toán như trình bày tại luận án này. Điều này, một lần nữa càng khẳng định khi hầu hết các nội dung của Basel II là nhằm hướng dẫn các ngân hàng xác định đúng mức vốn tự có tối thiểu an toàn, cộng đồng nghĩa với việc nó đã tạo ra cho ngân hàng một công cụ hữu ích để quản trị RRTD tổng thể.

Thực tiễn đã chứng minh rằng, vốn tự có mạnh là nền tảng chính giúp ngân hàng vượt qua các cú sốc lớn trong HĐKD và giảm thiểu các tác động dây chuyền của khủng hoảng hệ thống tài chính. Các tình huống thảm họa có thể xảy ra không nhiều hoặc thậm chí cực hiếm và thường là "ngoài dự kiến”, nhưng không nên quên rằng, khi chúng xảy ra thì các ngân hàng rất dễ đi đến chỗ phá sản hoàn toàn nếu không có đủ vốn tự có. Khi đề cao vốn tự có, Basel II đã đề cao tấm khiên chung bảo vệ ngân hàng trước mọi loại hình rủi ro, trong đó bao gồm RRTD.

3.2.3. Hoàn thiện các quy định về quản trị rủi ro tín dụng

Hiện nay ngân hàng đã có các quy định vận hành hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, do các quy định được xây dựng tại các thời kỳ khác nhau, do nhiều bộ phận đầu mối xây dựng, phục vụ mục tiêu từng giai đoạn, được chỉ đạo bởi nhiều cấp lãnh đạo... cho nên hiện có một số quy định chồng chéo, khó thực hiện. Do vậy, để đảm bảo hoạt động tín dụng vận hành hiệu quả, minh bạch, dễ phân trách nhiệm đòi hỏi ngân hàng phải rà soát và chuẩn hóa, xây dựng các quy định, quy trình quản trị RRTD bao gồm:

- Các quy định về các sản phẩm tín dụng, tài sản bảo đảm, đối tượng khách hàng, các khu vực địa lý, các ngành nghề kinh tế được cấp tín dụng hoặc hạn chế cấp tín dụng;

- Các quy trình về thẩm định tín dụng, quản lý tín dụng và lập hồ sơ tín dụng;

- Các quy định về phân cấp thẩm quyền phê duyệt tín dụng, bao gồm cả các thẩm quyền phê duyệt các trường hợp ngoại lệ;

- Các hướng dẫn cho từng hình thức, loại hình cấp tín dụng;

- Các hạn mức RRTD và các giới hạn cấp tín dụng tuân thủ các quy định của pháp luật, phù hợp chiến lược quản lý rủi ro tín dụng.

- Các quy định về phân cấp thẩm quyền đối với việc trích lập dự phòng rủi ro và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo quy định;

- Các quy định về xác định lãi suất cấp tín dụng;


- Các quy định về vai trò và trách nhiệm của cá nhân, bộ phận liên quan đến cấp tín dụng và quản lý tín dụng;

- Quy định về quản lý các khoản tín dụng có vấn đề;

- Quy định về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.

Đặc biệt, trong điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị ngân hàng và đặc biệt là quản trị RRTD, các quy định và quy trình liên quan đến hoạt động tín dụng cần rà soát và chỉnh sửa đáp ứng yêu cầu của hệ thống công nghệ thông tin, hướng tới tính tự động hóa cập nhật thông tin, phân tích, đánh giá và báo cáo.

3.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Trong bất kỳ hoạt động nào của ngân hàng thương mại thì yếu tố con người vẫn đóng vai trò then chốt. Do trình độ chuyên môn nghiệp vụ và hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, hoặc do ý thức trách nhiệm không cao, hoặc do thiếu đạo đức nghề nghiệp đã vi phạm các quy trình nghiệp vụ, cơ chế, chính sách, pháp luật dẫn đến những thất thoát tài sản của ngân hàng. Bởi vậy, nếu đội ngũ cán bộ đáp ứng được những yêu cầu HĐKD ngân hàng chắc chắn sẽ giảm thiểu phần lớn những tổn thất rủi ro do chủ quan gây ra. Giải pháp này hướng tới những vấn đề cụ thể bao gồm:

- Sử dụng những chuyên gia giỏi chuyên nghiên cứu về rủi ro và quản trị rủi ro làm hạt nhân trong việc tham mưu cho lãnh đạo Ngân hàng và trong việc phổ cập kiến thức và kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên về rủi ro và quản trị rủi ro. Mỗi khi ban hành quy định mới hay bổ sung, sửa đổi các cơ chế, quy chế cần cập nhật về quản trị rủi ro, Ban lãnh đạo ngân hàng cần thiết lắng nghe ý kiến của các chuyên gia coi trọng những đề xuất khách quan và khoa học. Muốn có chuyên gia giỏi và nguồn nhân lực có chất lượng tốt, trước hết đầu tư kinh phí để cử một số cán bộ có năng lực lựa chọn qua thi tuyển đi học tập ngắn hạn ở các nước, các ngân hàng đi đầu trong quản trị rủi ro, hoặc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ tại chỗ do các chuyên gia giàu kinh nghiệm đảm nhiệm. Sau đó sử dụng chính những cán bộ đã được đào tạo vào việc giảng dạy nâng cao kiến thức về rủi ro và phòng ngừa rủi ro đối với đội ngũ nghiệp vụ trong ngân hàng theo mô hình "vết dầu loang". Thực hiện theo phương pháp này hiệu quả sẽ rất cao và chỉ cần trong thời gian không dài, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ và văn hóa quản trị rủi ro sẽ được nâng lên góp phần nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng.

- Tích cực tìm kiếm cơ hội đào tạo kết hợp với việc chủ động mở các lớp đào tạo ngắn hạn về chuyên môn nghiệp vụ và ý thức đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, nhân viên theo mô hình và phương thức các lớp bồi dưỡng kiến thức về rủi ro trên đây để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ trên tất cả các lĩnh vực HĐKD khác của ngân hàng.


- Bố trí sắp xếp có hiệu quả đội ngũ cán bộ nghiệp vụ theo nguyên tắc đúng người đúng việc, bố trí công tác phù hợp với khả năng, trình độ và sở trường của mỗi người sẽ tránh được những rủi ro trong HĐKD.

- Mỗi cán bộ cũng cần phải được đặt trong môi trường cạnh tranh, tạo thêm ưu đãi hay thưởng phạt và được quy định rõ ràng về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi tạo động lực thúc đẩy tinh thần trách nhiệm, tính năng động sáng tạo của mỗi cán bộ.

Nâng cao năng lực nhận biết rủi ro tín dụng

Đây là khâu đầu tiên trong quản trị RRTD, trên cơ sở nhận biết rủi ro các nhà quản trị sẽ tiếp tục thực hiện các khâu tiếp theo, đây là một trong các nội dung quan trọng nhất trong quản trị RRTD. Để nhận biết rủi ro cần xem xét đến các dấu hiệu của RRTD, trên cơ sở đó phân tích rủi ro, đánh giá và nhận biết rõ bản chất của RRTD, các nhân tố ảnh hưởng và mức độ tác động các nhân tố đó đến RRTD của ngân hàng.

Trên cơ sở các dấu hiệu RRTD, các bộ phận chịu trách nhiệm quản trị rủi ro theo phạm vi nhiệm vụ của mình đưa ra các đánh giá, nhận xét, đề xuất đến bộ phận chịu trách nhiệm trực tiếp để có phương án xử lý kịp thời. Dấu hiệu của RRTD có thể đến từ phía khách hàng hay từ chính nội bộ ngân hàng. Quá trình này được thực hiện trong suốt quá trình cấp tín dụng cho khách hàng, từ bán hàng, thẩm định, phê duyệt, vận hành, giám sát tín dụng đến khâu cuối cùng đó là xử lý nợ có vấn đề.



1 Thiết lập 1 Thẩm định Phê duyệt 1 Kiểm tra 1 Vận hành 1 Quản lý quan hệ 1

1.Thiết lập

1.Thẩm định

Phê duyệt

1. Kiểm tra

1.Vận hành

1.Quản lý

quan hệ

khách hàng.

trên cơ sở

pháp lý và

hệ thống

danh mục

khách hàng

2.Thẩm định

khẩu vị rủi

tính tuân thủ

cảnh báo

xử lý nợ có

2.Thu thập

phương án,

ro, chính

so với quy

sớm nhằm

vấn đề.

thông tin

dự án

sách tín dụng

định, quy

ngăn ngừa và

2.Đề xuất

khách hàng.

3. Thẩm

từng thời kỳ,

trình nội bộ,

quản lý rủi

và triển

3. Xem xét,

định Tài sản

quy định/quy

phù hợp với

ro.

khai các

đánh giá

đảm bảo

trình nội bộ

các điều

2.Giám sát

phương án

khách hàng.

4. Xếp hạng


kiện phê

định kỳ và

cơ cấu nợ,

4. Đề xuất

tín dụng


duyệt.

đột xuất

tái cấu trúc

tín dụng

5. Đánh giá


2.Soạn thảo

3.Phát hiện

và thu hồi


rui ro, giá


và ký kết

các dấu hiệu

nợ xấu.


trị, cấu trúc


văn kiện tín

rui ro tín

3.Trực tiếp


và điều kiện


dụng.

dụng.

thực hiện


tín dụng liên


3.Kiểm tra

4.Đề xuất và

thu hồi nợ


quan.


chứng từ

phối hợp





giải ngân và

triển khai





thực hiện

phương án





giải ngân.

thu hồi





4.Nhắc nợ

nhanh.





và thu nợ



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 13

Sơ đồ 3.2. Quy trình chuẩn cấp tín dụng tại VietinBank

Để tăng cường hiệu quả nhận biết RRTD, Ngân hàng cần lưu ý một số khâu trong quy trình cấp tín dụng, đặc biệt là các khâu: Thẩm định tín dụng, phê duyệt tín dụng và chất lượng các báo cáo về tín dụng, RRTD, cụ thể:

Thẩm định tín dụng

Ngân hàng phải đánh giá, thẩm định tín dụng trước khi phê duyệt cấp tín dụng. Nội dung đánh giá, thẩm định tín dụng bao gồm:

- Đánh giá về các yếu tố kinh tế vĩ mô, ngành nghề kinh doanh của khách hàng;

- Mục đích xin cấp tín dụng của khách hàng và nguồn tiền trả nợ;

- Tổng mức RRTD của khách hàng;


- Xếp hạng rủi ro của khách hàng;

- Các điều khoản và thỏa thuận dự kiến;

- Tính đầy đủ và khả năng thu hồi của tài sản bảo đảm;

- Các phê duyệt của các cơ quan chức năng (nếu có).

Trường hợp sử dụng kết quả phân tích, đánh giá rủi ro từ nguồn bên ngoài để thẩm định tín dụng, ngân phải kiểm tra chất lượng nguồn này và phải đảm bảo nguồn đánh giá từ bên ngoài phải độc lập với bên được cấp tín dụng trong mọi trường hợp.

Ngân hàng phải phân tích khả năng tài chính, dòng tiền (giá trị và thời gian) và mục tiêu sử dụng vốn vay của khách hàng để cung cấp các hình thức cấp tín dụng, sản phẩm tín dụng phù hợp cho khách hàng, và đảm bảo mức rủi ro/lợi nhuận hợp lý, lợi nhuận bù đắp chi phí phát sinh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Đối với các khoản cấp tín dụng có tài sản bảo đảm, ngân hàng phải có đánh giá, thẩm định đối với tài sản bảo đảm đó được coi là nguồn trả nợ khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Đối với các khoản cấp tín dụng có bảo lãnh của bên thứ ba phải đánh giá, thẩm định khách hàng và bên bảo lãnh thứ ba để đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ cam kết của bên thứ ba khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ.

Phê duyệt quyết định tín dụng

Ngân hàng phải có quy trình phê duyệt quyết định tín dụng ở các cấp từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất. Quy trình phê duyệt quyết định tín dụng phải được quy định bằng văn bản đảm bảo các yêu cầu sau:

- Quy định cụ thể cá nhân hoặc hội đồng có thẩm quyền phê duyệt quyết định tín dụng theo các tiêu chí (bao gồm tiêu chí định lượng và tiêu chí định tính) và các trường hợp chuyển lên cấp thẩm quyền cao hơn để phê duyệt. Biên bản phê duyệt quyết định tín dụng phải ghi rõ cơ sở, lý do phê duyệt hoặc không phê duyệt (phải được lưu lại trong hồ sơ phê duyệt) và cá nhân, chủ tịch hội đồng chịu trách nhiệm về việc phê duyệt quyết định tín dụng đó;

- Hội đồng quản trị phê duyệt các khoản cấp tín dụng có mức độ rủi ro trọng yếu và các khoản cấp tín dụng cho khách hàng thuộc đối tượng quy định tại Điều 127 Luật các tổ chức tín dụng.

- Quy định cụ thể các trường hợp ngoại lệ về phê duyệt quyết định cấp tín dụng và quy chế ghi nhận, báo cáo các ngoại lệ này;

- Tính minh bạch để bộ phận kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập hoặc cơ quan có thẩm quyền thực hiện kiểm toán, kiểm tra và thanh tra, giám sát theo quy định pháp luật.


Trên cơ sở quy mô, mức độ phức tạp của khoản cấp tín dụng, quy trình phê duyệt quyết định cấp tín dụng có quy định cụ thể về các thông tin thẩm định tín dụng cần thiết để phê duyệt quyết định tín dụng.

Yêu cầu đối với báo cáo về RRTD

Định kỳ hay đột xuất (theo yêu cầu), khối quản trị rủi ro phải lập và trình các báo cáo nội bộ về RRTD cho Hội đồng quản trị và Ban điều hành của ngân hàng với các nội dung sau:

- Chất lượng của các khoản tín dụng, danh mục tín dụng phân loại theo quốc gia, lĩnh vực, ngành nghề, hạng rủi ro, quy mô, tài sản bảo đảm, loại tiền tệ và kỳ hạn;

- Các khoản tín dụng có vấn đề;

- Các khoản tín dụng lớn và tình hình tập trung tín dụng;

- Các khu vực, lĩnh vực ngành nghề có tỷ lệ tăng trưởng tín dụng mạnh;

- Đánh giá tài sản bảo đảm, phân loại các khoản tín dụng theo tài sản bảo đảm;

- Tình hình trích lập dự phòng rủi ro;

- Tình hình kinh doanh các sản phẩm mới hoặc hoạt động tín dụng trong thị trường mới, bao gồm kết quả trong giai đoạn thử nghiệm;

- Các quyết định tín dụng ngoại lệ không thực hiện các chiến lược, chính sách quy trình quản trị RRTD và các cơ sở, lý do của người có thẩm quyền quyết định;

- Kết quả rà soát, đánh giá việc triển khai các khuyến nghị do kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập đưa ra;

- Các vi phạm hạn mức rủi ro trong kỳ báo cáo và lý do vi phạm;

- Các khuyến nghị về công tác quản trị RRTD.

- Đánh giá tình hình tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt là việc tuân thủ các tỷ lệ bảo đảm an toàn;

- Đánh giá chung tất cả các rủi ro và đánh giá cụ thể từng loại rủi ro trọng yếu trên cơ sở so sánh với hạn mức rủi ro và tác động đối với vốn và lợi nhuận của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại thời điểm báo cáo và trong tương lai;

- Kết quả kiểm tra sức chịu đựng (stress testing);

3.2.5. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị rủi ro tín dụng và xây dựng hệ thống cảnh báo sớm rủi ro tín dụng

Công nghệ thông tin là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao năng lực hoạt động của ngân hàng bởi lẽ công nghệ thông tin sẽ cải thiện môi trường làm việc, tăng nhanh tốc độ xử lý công việc, xử lý giao dịch với độ an toàn cao hơn do giảm bớt sự can thiệp thủ công và vì vậy cải thiện được dịch vụ.


Theo Basel II, sự đầu tư công nghệ này theo thời gian tất yếu sẽ phát huy được lợi ích tiềm tàng to lớn của nó trong hoạt động ngân hàng nói chung, cũng như trong quản lý rủi ro nói riêng. Công nghệ là chìa khóa để có thể xây dựng hệ thống thông tin quản lý hiện đại tối ưu, là cơ sở cần thiết để có thể áp dụng các mô hình đo lường định lượng. Nếu không có số liệu chính xác thi ngân hàng không thể chạy thử nghiệm các mô hình rủi ro. Hơn thế nữa, một khi hệ thống thông tin quản lý được nâng cấp, thông tin mang tính tập trung để có thể hỗ trợ tốt cho việc điều hành, lại là cơ sở tiếp theo cho việc thực hiện mô hình tổ chức quản lý rủi ro tập trung. Hệ thống thông tin của một ngân hàng minh bạch sẽ là điều kiện để NHNN và các cơ quan kiểm soát bên ngoài tiếp cận thông tin của ngân hàng và sẽ thiết lập được hệ thống kiểm soát kép. Ngược lại, nếu công nghệ và hệ thống thông tin quản lý còn quá yếu kém, thì việc áp dụng mô hình quản lý rủi ro tối ưu sẽ khó có thể thực hiện được. Do đó, công nghệ và hệ thống thông tin quản lý là điều kiện cần thiết để xác định và thực thi mô hình quản lý rủi ro.

Một trong những biện pháp quan trọng trong quản trị RRTD đó là xây dựng hệ thống cảnh báo sớm RRTD dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin. Dựa trên các số liệu thống kê được cập nhật thường xuyên về khách hàng, danh mục tín dụng cũng như thông tin tín dụng của ngân hàng, kết hợp các thông tin thị trường và các thuật toán được thiết lập, hệ thống sẽ đưa ra các cảnh báo rủi ro đối với từng khoản vay, danh mục tín dụng, toàn hệ thống ngân hàng để nhà quản trị, điều hành có các biện pháp ứng phó kịp thời.

3.2.6. Phối hợp giữa quản trị rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tác nghiệp, chủ động ứng phó rủi ro tín dụng

Việc phối hợp giữa quản trị RRTD và quản trị rủi ro tác nghiệp là vấn đề quan trọng trong quản trị chất lượng tín dụng. RRTD có thể xảy ra ở bất cứ khâu nào trong quá trình cấp tín dụng, quản trị khoản vay của ngân hàng. Một ví dụ điển hình đó là: nếu một thông tin nào đó về khách hàng được nhân viên tín dụng nhập sai vào hệ thống, có thể dẫn đến xác định hàng khách hàng sai, dẫn đến quyết định tín dụng không chính xác, tiềm ẩn rủi ro mất vốn cho ngân hàng. Do đó, cần thiết phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa quản trị RRTD và quản trị rủi ro tác nghiệp.

Sự phối hợp này còn phải được thể hiện ở sự đồng bộ giữa hệ thống quy định và quy trình liên quan đến hoạt động tín dụng, hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ công tác tín dụng. Bởi vì, hệ thống quy định với những hạn mức, thẩm quyền... là công cụ của quản trị RRTD. Song, những quy trình cụ thể, từng bước thực hiện công việc với những chỉ dẫn cụ thể, rõ ràng, giảm thiểu sai sót trong HĐKD hàng ngày lại là công cụ quản trị của rủi ro tác nghiệp.


Hệ thống cơ sở hạ tầng mà điển hình là hệ thống phần mềm cài đặt những chương trình tự động từ chối những vi phạm hạn mức hoặc đưa ra cảnh báo khi có tiềm ẩn rủi ro là công cụ hữu hiệu trong cả quản trị RRTD và rủi ro tác nghiệp. Vì vậy, nâng cao chất lượng quản trị RRTD cần thiết phải đi đôi với nỗ lực cải thiện chất lượng quản trị rủi ro tác nghiệp. Cụ thể hơn nữa đó là việc nâng cao chất lượng các quy trình hướng dẫn tác nghiệp, đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ cho chu trình tín dụng nói riêng và các HĐKD nói chung của ngân hàng được diễn ra nhịp nhàng, trôi chảy.

Để chủ động ứng phó RRTD, VietinBank cần chú trọng trong công tác quản trị tín dụng, quản trị tài sản đảm bào, quản trị khoản vay có vấn đề, sử dụng cơ chế phân cấp ủy quyền, đồng thời có các biện pháp phân tán rủi ro (quản trị theo danh mục, ngành hàng, sử dụng các công cụ phái sinh) và bảo hiểm RRTD.

Quản trị tín dụng

Quy trình để quản trị tín dụng gồm các nội dung: Lập hồ sơ tín dụng, giải ngân, giám sát tín dụng, theo dõi lịch trả nợ và lưu trữ hồ sơ tín dụng.

- Lập hồ sơ tín dụng: Ngân hàng phải có bộ phận, cá nhân chịu trách nhiệm đảm bảo các hồ sơ tín dụng (hợp đồng tín dụng, chứng thư bảo lãnh, hồ sơ bảo đảm cho khoản cấp tín dụng và các hồ sơ liên quan khác) đầy đủ, hợp lệ và tuân thủ các điều khoản đã thỏa thuận.

- Giải ngân: Ngân hàng chỉ giải ngân theo các điều khoản quy định sau khi khoản cấp tín dụng đã được phê duyệt và hồ sơ tín dụng đã hoàn tất, tài sản bảo đảm (nếu có) đã được thực hiện theo các điều khoản của hợp đồng bảo đảm. Đối với các trường hợp ngoại lệ phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Giám sát tín dụng: Khoản cấp tín dụng sau khi được phê duyệt và giải ngân phải được giám sát thường xuyên:

(i) Việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng cấp tín dụng (bao gồm cả việc sử dụng vốn đúng mục đích theo hợp đồng tín dụng);

(ii) Xác định sớm các dấu hiệu bất thường về khả năng thực hiện các nghĩa vụ trả nợ của khách hàng;

(iii) Định kỳ đánh giá tài sản bảo;

(iv) Các nội dung khác nếu cần thiết.

- Theo dõi lịch trả nợ: Có các hình thức nhắc nhở khách hàng về kỳ hạn thực hiện nghĩa vụ trước khi đến hạn. Trường hợp khách hàng không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ chậm theo kỳ hạn, ngân hàng phải ghi nhận và báo cáo kịp thời cho các cấp có thẩm quyền;


- Lưu trữ: ngân hàng phải lưu trữ hồ sơ tín dụng, các thông tin về khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ và lịch sử trả nợ của khách hàng và các thông tin khác có liên quan.

Quản trị tài sản bảo đảm

Ngân hàng phải có quy trình quản trị tài sản bảo đảm từ khi bắt đầu đến khi thanh lý hợp đồng bảo đảm, bao gồm: Danh sách các loại tài sản đảm bảo, phương pháp xác định giá trị tài sản đảm bảo, tần suất đánh giá tài sản đảm bảo.

Các phương pháp xác định giá trị thị trường, giá trị thu hồi và thời gian phát mại của từng loại tài sản bảo đảm để làm cơ sở xác định tài sản bảo đảm đủ điều kiện để khấu trừ và tỷ lệ khấu trừ khi trích lập dự phòng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;

Tần suất đánh giá tài sản bảo đảm theo nguyên tắc tài sản bảo đảm có sự biến động giá trị nhiều hơn sẽ phải đánh giá thường xuyên hơn. Đối với các tài sản bảo đảm là hàng hóa, máy móc thiết bị và tài sản vật chất khác phải được kiểm tra giá trị định kỳ theo nguyên tắc tài sản bảo đảm có sự biến động giá trị nhiều hơn sẽ kiểm tra thường xuyên hơn.

Việc xác định giá tài sản bảo đảm phải phù hợp với quy định của pháp luật, bao gồm việc xác định giá trị tài sản đảm bảo do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tự định giá và do tổ chức có chức năng thẩm định giá theo quy định định giá.

Quản trị khoản cấp tín dụng có vấn đề

Khoản tín dụng có vấn là khoản cấp tín dụng được phân loại vào nhóm nợ xấu theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Quy trình quản trị khoản cấp tín dụng có vấn đề tối thiểu bao gồm:

- Nguyên tắc thỏa thuận và theo dõi khách hàng đảm bảo: Chủ động thỏa thuận với khách hàng về các biện pháp xử lý dự kiến đối với các khoản cấp tín dụng có vấn đề và theo dõi, đánh giá tính khả thi của các biện pháp xử lý.

- Nguyên tắc xây dựng và triển khai các biện pháp xử lý đảm bảo: Nâng cao khả năng trả nợ của khách hàng (ví dụ cơ cấu lại khoản cấp tín dụng, miễn giảm lãi...) trên cơ sở tình hình kinh doanh, cam kết thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng đồng thời đảm bảo lợi ích tối đa cho Ngân hàng.

- Quy định rà soát, đánh giá lại tài sản bảo đảm theo nguyên tắc xác định giá trị thu hồi của khoản cấp tín dụng trên cơ sở giá trị được định giá gần nhất của tài sản bảo đảm. Hồ sơ tài sản bảo đảm phải được rà soát để đảm bảo đầy đủ và có hiệu lực khi xử lý tài sản bảo đảm.


- Quy định về báo cáo thực trạng đảm bảo các khoản cấp tín dụng có vấn đề phải được rà soát và giám sát thường xuyên hơn các khoản cấp tín dụng bình thường. Thực trạng trả nợ của khoản cấp tín dụng có vấn đề phải được cập nhật, báo cáo cho Hội đồng quản trị, Ban điều hành.

Xây dựng cơ chế phân cấp, ủy quyền:

Nhằm đảm bảo tính khách quan, quyết định tín dụng phải được đưa ra bởi bộ phận rủi ro thay vì bộ phận kinh doanh đưa ra như hiện đang triển khai tại VietinBank. Để làm được việc này, một cơ chế phân cấp thẩm quyền mới cần phải được thiết lập. Theo đó, khối rủi ro từ cấp chi nhánh đến Trụ sở chính sẽ được ủy quyền ra quyết định tín dụng và thẩm quyền phê duyệt của cá nhân sẽ được chú trọng tăng cường.

- Tuy nhiên, mô hình phân cấp thẩm quyền cho khối rủi ro tại ngân hàng được cho là mô hình trong dài hạn. Để có bước đệm cho mô hình này, trong thời gian trước mắt, ngân hàng có thể áp dụng mô hình hai quyết định, có nghĩa là quyết định tín dụng sẽ được đồng thời đưa ra bởi bộ phận kinh doanh và bộ phận rủi ro. Mô hình phê duyệt tín dụng này cũng đáp ứng được nguyên tắc "bốn mắt" (four eye principle), giảm thiểu rủi ro đạo đức trong việc ra quyết định tín dụng. Hơn nữa, có sự tham gia của cán bộ rủi ro trong phê duyệt tín dụng sẽ tạo điều kiện cho việc cải tiến công tác xác định lãi suất khoản vay. Theo đó, định giá lãi suất không đơn thuần dựa trên giá đầu vào của nguồn vốn và các chi phí hoạt động khác mà nó còn được điều chỉnh bởi nhân tố rủi ro của khoản vay. Kết quả là, lãi suất của các khoản vay đối với cùng một đối tượng khách hàng, cùng một kỳ hạn có thể khác nhau do rủi ro khác nhau. Điều này góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản trị RRTD thông qua cung cấp một thước đo quản trị rủi ro hữu hiệu đó là lãi suất điều chỉnh rủi ro. Mặc dù vậy, cần thiết phải đề cập đến "ngoại lệ", đó là phê duyệt khoản vay cá nhân. Do các khoản vay này tương đối nhỏ, vì vậy không cần thiết phải có sự tham gia trực tiếp của cán bộ rủi ro trong quyết định tín dụng nhưng phải đảm bảo quy tắc "bốn mắt" đã nêu. Cụ thể, phê duyệt khoản vay cá nhân có thể được thực hiện bởi cán bộ phụ trách khách hàng và lãnh đạo phòng khách hàng. Tuy nhiên, sự tham gia của cán bộ rủi ro phải được thể hiện ở việc khối rủi ro đưa ra đề xuất cho hạn mức, điều kiện, phương pháp định giá đối với những khoản tín dụng "ngoại lệ" này, đảm bảo phù hợp với chiến lược rủi ro chung của ngân hàng.

- Một nội dung cơ bản khác trong cải thiện chất lượng phê duyệt tín dụng đó là tăng cường thẩm quyền phê duyệt cá nhân. Đối với những khoản vay lớn, phức tạp (thông thường là đối với khách hàng là doanh nghiệp lớn), quyết định tín dụng có thể phải được đưa ra bởi Hội đồng tín dụng. Theo đó, ý kiến tập thể mới là phê duyệt cuối cùng. Tuy nhiên, đối với những khoản tín dụng đơn giản, quy mô nhỏ, phê duyệt tín dụng không cần

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 23/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí