Các yếu tố về xã hội như phong tục tập quán, mức sống,… có ảnh hưởng đến thái độ tiêu dùng và khả năng thanh toán của khách hàng mục tiêu. Những khác biệt về văn hóa, xã hội mang tính bản sắc lành mạnh có ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh và tính độc đáo của sản phẩm.
Yếu tố tự nhiên bao gồm điều kiện thời tiết, khí hậu, địa hình,…Điều kiện tự nhiên qui định tiềm năng cả về qui mô công suất, cơ cấu các nguồn năng lượng tái tạo (năng lượng Gió, Mặt trời, Địa nhiệt, Thủy, Sinh khối).
Các yếu tố tự nhiên trước hết có ảnh hưởng đến khả năng khai thác tiềm năng phát triển nguồn SPNLTT, đặc biệt là nguồn Cung NLTT ở qui mô công nghiệp. Đồng thời, nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến suất đầu tư và hiệu quả sinh lời của các dự án năng lượng tái tạo. Mặt khác, điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến cơ cấu nhu cầu sử dụng năng lượng (sưởi ấm, làm mát) và tính mùa vụ của nhu cầu sử dụng năng lượng.
1.3.1.4. Công nghệ
Công nghệ
đang ngày càng trở
thành một yếu tố
quan trọng đối với tăng
trưởng và hiệu quả tăng trưởng kinh tế nói chung. Đây là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ nhất việc sản xuất và cung ứng ra thị trường SPNLTT có chất lượng tốt hơn, với nhiều mẫu mã đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Với sự chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, các yếu tố kỹ thuật và công nghệ, vật liệu, thiết bị và dây chuyền sản xuất. Doanh nghiệp có điều kiện ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ để tạo ra sản phẩm co chất lượng cao nhằm phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí tăng giá trị gia tăng của sản phẩm, tăng tỷ lệ nội địa hóa.
Các công nghệ chuyển đổi năng lượng tái tạo bao gồm từ việc hợp lý hóa việc sản xuất và vận hành năng lượng tái tạo (tự động hóa và sản xuất tiên tiến) đến tối ưu hóa việc sử dụng chúng, cải thiện thị trường cho năng lượng tái tạo (blockchain) và chuyển đổi vật liệu của các tấm Pin mặt trời và Tuabin gió (vật liệu tiên tiến)...
Có thể bạn quan tâm!
- Sản Phẩm Và Thị Trường Sản Phẩm Năng Lượng Tái Tạo
- Nội Dung Và Các Tiêu Chí Đánh Giá Phát Triển Thị Năng Lượng Tái Tạo
- Gia Tăng Qui Mô, Mở Rộng Phạm Vi Và Nâng Cao Mức Độ Thoả Mãn Nhu Cầu Sử Dụng Spnltt Trong Nền Kinh Tế
- Kinh Nghiệm Về Phát Triển Sản Phẩm Năng Lượng Tái Tạo ( Khí Biogas,
- Phát Triển Thị Trường Spnltt Và Vấn Đề Trợ Cấp Thiết Bị
- Các Yếu Tố Tự Nhiên, Kinh Tế Xã Hội Ảnh Hưởng Đến Phát Triển Thị Trường Sản Phẩm Năng Lượng Tại Tạo Vùng Trung Du Miền Núi Phía Bắc Việt Nam
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
Tác động của tự động hóa làm giảm đáng kể thời gian và chi phí cho sản xuất và vận hành năng lượng mặt trời và gió. Trong tương lai, robot thu thập thông tin sẽ cho phép kiểm tra bằng vi sóng và siêu âm tự động về cấu trúc bên trong và vật liệu trong các tấm Pin mặt trời và Tuabin gió. Các công nghệ mới liên quan đến tự động hóa, trí tuệ nhân tạo và blockchain, cũng như các vật liệu, quy trình sản xuất tiên
tiến, có thể
đẩy nhanh việc triển khai
sản xuất, gia công lắp ráp, phân phối
SPNLTT.
Nhìn chung, yếu tố công nghệ có ảnh hưởng bao trùm đến thị trường năng lượng tái tạo và thị trường SPNLTT. Vì vậy yếu tố Công nghệ chính là động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển các nguồn cung, nâng cao hiệu quả sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm và tạo thuận lợi cho quá trình phân phối sản phẩm năng lượng tái tạo. Đồng thời, công nghệ cũng là yêu tố giúp tiêu dùng năng lượng tiết kiệm, mở rộng nhu cầu tiêu dùng.
1.3.1.5. Hội nhập quốc tế và cam kết của Việt Nam
a) Hội nhập Quốc tế
Yếu tố hợp tác quốc tế chủ yếu có ảnh hưởng đến phát triển thị trường năng lượng tái tạo, như: Thuận lợi hóa quá trình chuyển giao công nghệ sản xuất sản phẩm năng lượng tái tạo; Gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài và hợp tác quốc tế về phát triển năng lượng tái tạo;…
Trong những năm gần đây Chính phủ Việt Nam đã hợp tác với Liên minh Châu Âu để phát triển Chương trình cấp điện nông thôn từ năng lượng tái tạo nhằm đầu tư cấp điện cho các thôn bản vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số của các địa phương trong vùng Trung du miền núi phía Bắc Việt Nam với mục tiêu cung cấp khả năng tiếp cận năng lượng bền vững cho tất cả mọi người, tăng gấp đôi tỷ lệ năng lượng tái tạo (từ 18% năm 2010 lên 36% vào năm 2030).
Bên cạnh đó, các tổ chức quốc tế và các quốc gia cũng nỗ lực thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách hiểu được bối cảnh chuyển đổi năng lượng toàn cầu, cung cấp các trợ giúp kỹ thuật thiết kế dự án, hỗ trợ đầu tư, thực hiện dự án...
b) Cam kết của Việt Nam
Trong phát biểu tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) vừa diễn ra trong tháng 11 năm 2021 tại Glasgow, Vương quốc Anh, Thủ tướng Phạm Minh Chính chính thức công bố cam kết của Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Các mục tiêu và nhiệm vụ được thể hiện rõ trong các kế hoạch phát triển của ngành và địa phương, đặc biệt là Quy hoạch Tổng thể Năng lượng quốc gia 2021 2030, tầm nhìn 2050. Theo dự thảo Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 20212030 tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII), ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo tới năm 2030 cụ thể điện gió, mặt trời và năng lượng tái tạo khác
29%, nhập khẩu khoảng gần 4%; thủy điện tích năng và các loại thiết bị lưu trữ năng lượng khác khoảng gần 1%). Năm 2045, điện gió, mặt trời và năng lượng tái tạo khác trên 44%, nhập khẩu khoảng gần 2%, thủy điện tích năng và các loại thiết bị lưu trữ năng lượng khác khoảng 3% phù hợp với Nghị quyết 55/NQTW.
1.3.2. Các yếu tố thuộc ngành năng lượng tái tạo
1.3.2.1. Cạnh tranh trên thị trường năng lượng
Ngành năng lượng luôn gắn liền với chiến lược đảm bảo anh ninh năng lượng của mỗi quốc gia. Do đó, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành năng lượng hiện nay, tùy theo mô hình kinh tế, thường mang tính độc quyền nhóm hoạch độc quyền nhà nước. Tình trạng độc quyền, nhất là độc quyền nhà nước có thể làm giảm áp lực đổ mới, sáng tạo công nghệ của doanh nghiệp và tính hiệu quả của thị trường.
Trong ngành năng lượng hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất năng lượng truyền thống hiện đang giữ lợi thế cạnh tranh hơn so với các doanh nghiệp sản xuất năng lượng tái tạo do lợi thế của người đi trước (năng lượng hóa thạch) và rào cản về vốn đầu tư, công nghệ (năng lượng tái tạo). Tuy nhiên, trong tương lai, năng lượng hóa thạch dần cạn kiệt, trong khi nguồn tài nguyên tái tạo gần như vô tận (với chi phí gần bằng không) cùng với tiến bộ về công nghệ và lựa chọn chính sách của các chính phủ, lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất năng lượng tái tạo sẽ gia tăng so với các doanh nghiệp sản xuất năng lượng hóa thạch.
Trong sản xuất năng lượng tái tạo, các doanh nghiệp sản xuất điện có lợi thế hơn so với các doanh nghiệp sản xuất khí và nhiên liệu lỏng do lợi thế đi trước về công nghệ, hạ tầng kỹ thuật, hệ thống phân phối tiêu thụ điện. Đồng thời, trong sản xuất điện năng, các doanh nghiệp chuyển đổi nguồn năng lượng mặt trời cũng có lợi thế hơn so với các doanh nghiệp chuyển đổi năng lượng gió, thủy triều…
Trong ngành năng lượng nói chung và năng lượng tái tạo nói riêng, đối thủ
cạnh tranh tiềm ẩn chính là các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp công
nghệ cao nếu họ lựa chọn và quyết định gia nhập ngành. Đây là đe dọa cạnh tranh cho các doanh nghiệp hiện tại (kể cả doanh nghiệp năng lượng truyền thống và năng lượng tái tạo) về chi phí đầu tư, hành, bảo trì, quản lý hệ thống phân phối, khách hàng.
Ngoài ra, do áp lực về đảm bảo năng lượng đặc biệt về an ninh năng lượng và tác động của yếu tố hội nhập, Chính phủ có thể tiến hành thúc đẩy khu vực tư nhân
và khu vực đầu tư nước ngoài gia nhập ngành sản xuất và phân phối năng lượng tái tạo, SPNLTT, khi đó, đe dọa cạnh tranh cho các doanh nghiệp hiện tại.
1.3.2.2. Áp lực từ phía cung ứng thiết bị sản xuất sản phẩm năng lượng tái
tạo
Các nhà sản xuất, cung ứng thiết bị sản xuất SPNLTT thường là các tập đoàn
kinh tế lớn hàng đầu thế giới và có vị thế độc quyền trên thị trường này. Việc lắp đặt các công nghệ năng lượng Mặt trời và Gió sẽ cần chi phí cao hơn. Cụ thể, việc lắp đặt hệ thống năng lượng Mặt trời sẽ dao động từ 2.000 đến 3.700 đô la cho
mỗi kilowatt. Các công nghệ
gió cũng có giá từ
1.200 đến 1.700 đô la cho mỗi
kilowatt để lắp đặt. Tuy nhiên, nhiên liệu hóa thạch như nhà máy khí đốt tự nhiên có thể chỉ có giá khoảng 1.000 đô la cho mỗi kilowatt. Điều này khiến Chính phủ cũng như các tổ chức tài chính nhận thấy có nhiều khả năng rủi ro về năng lượng
tái tạo. Do đó, lãi suất vốn vay có thể cao hơn, gây khó khăn cho các nhà phát triển
hoặc các công ty tiện ích trong việc duy trì khoản đầu tư. Đó là một trong những rào cản đối với công nghệ năng lượng tái tạo. Mặc dù, chi phí lắp đặt công nghệ năng lượng Gió, Mặt trời và các loại SPNLTT khác cao, nhưng có chi phí vận hành rẻ. Về lâu dài, năng lượng Gió và năng lượng Mặt trời với quy mô tiện ích có thể trở thành năng lượng tái tạo tiêu tốn ít nhất nếu tính đến tổng chi phí trong suốt thời gian lắp đặt, vận hành.
Chủ nghĩa bảo hộ là mối đe dọa lớn nhất trong việc ngăn cản thương mại trên thị trường thiết bị năng lượng tái tạo toàn cầu. Nhiều quốc gia áp đặt mức thuế cao
đối với nhập khẩu thiết bị năng lượng tái tạo và cung cấp cho các công ty địa
phương một lượng lớn trợ cấp, tài trợ phát triển, các khoản vay ưu đãi và tín dụng xuất khẩu. Ví dụ, Trung Quốc và Ấn Độ có thị phần sản xuất tấm pin mặt trời lớn nhất thế giới do giá nhân công thấp. Các nhà sản xuất môđun năng lượng mặt trời ở châu Âu và Bắc Mỹ đã không thể cạnh tranh với các đối tác châu Á do áp đặt các mức thuế và trợ cấp lớn để bảo vệ thị trường địa phương.
Các hàng rào phi thuế quan thậm chí có thể hạn chế tiếp cận thị trường hơn
đối với các công ty ở nước ngoài. Ví dụ, Trung Quốc yêu cầu các công ty nước
ngoài muốn thâm nhập thị trường Trung Quốc phải thành lập một liên doanh địa phương, trao cho các đối tác Trung Quốc 51% quyền sở hữu. Do đó, chi phí tăng cao gây ảnh hưởng lớn đến thương mại năng lượng tái tạo. Vì năng lượng tái tạo là một lĩnh vực kinh doanh tương đối mới, các công ty mới thường không thể chịu
được chi phí mua lại lớn. Với những điều kiện như vậy, các công ty này có thể từ chối xuất khẩu năng lượng tái tạo sang các nước khác.
1.3.2.3. Áp lực từ phía khách hàng
Nhu cầu năng lượng thế giới được dự đoán sẽ tiếp tục tăng lên nhanh chóng cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh diễn ra trong những thập kỷ gần đây. Trong bối cảnh, các nguồn năng lượng hóa thạch đang dần cạn kiệt dự trữ và khí thải nhà kính tăng lên sẽ cần một sự thay đổi lớn từ cả về nguồn cung và nhu cầu sử dụng năng lượng. Trong khi năng lượng hạt nhân hiện không có khả năng tăng thị phần khiêm tốn hiện tại, năng lượng tái tạo sẽ phải cung cấp cho hầu hết nhu cầu năng lượng trong tương lai. Năng lượng tái tạo trong tổng cung cấp năng lượng sơ cấp trên phạm vi toàn cầu sẽ tăng từ 14% năm 2015 lên 63% vào năm 2050.
Trên thị trường SPNLTT, nhu cầu thực tế của các hộ tiêu dùng, bao gồm: cả doanh nghiệp và người dân, mục đích và động lực của sản xuất, là một căn cứ quan trọng để xác định khối lượng, cơ cấu, chất lượng SPNLTT được cung ứng ra thị trường. Vì vậy, sự phát triển nhanh về số lượng, phạm vi và chất lượng của nhu cầu tiêu dùng NLTT sẽ thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, cung ứng và tạo ra sự phát triển chung của thị trường. Sản xuất quyết định tiêu dùng, nhưng quá trình phát triển Cầu trên thị trường là một hiện tượng khách quan do tác động của nhiều yếu tố tự nhiên, văn hoá, xã hội,… chứ không phụ thuộc hoàn toàn vào sản xuất. Vì vậy, việc chuyển hóa qui mô tiêu dùng sản phẩm NLTT đó trở thành lượng cầu trên thị trường khôngchỉ phụ thuộc và khả năng tạo ra các sản phẩm phù hợp mà còn phụ thuộc vào chính sách, qui định liên quan đến tiêu dùng sản phẩm NLTT của nhà nước.
Hệ thống hạ tầng cung ứng sản phẩm NLTT là sự kết nối sống còn giữa sản
xuất và tiêu dùng. Việc cung
ứng sản phẩm điện NLTT liên quan đến hạ
tầng
truyền tải điện năng, hay việc cung ứng sản phẩn nhiên liệu sinh học (lỏng và khí) liên quan đến hệ thống hạ tầng kỹ thuật trong vận chuyển và lưu giữ,…
Trên thị trường, hệ thống hạ tầng cung ứng sản phẩm năng lượng hiện nay hầu hết các hệ thống truyền dẫn tồn tại ngày nay đều được thiết kế cho phân phối điện của các nhà máy điện hạt nhân và nhiên liệu hóa thạch. Các nhà phân phối này thường yêu cầu sự hỗ trợ của chính phủ để hòa điện năng lượng Mặt trời và gió sẽ vào lưới điện. Đồng thời, họ cũng cho rằng các máy phát điện NLTT sẽ cần nhiên liệu hóa thạch để dự phòng khi mặt trời không chiếu sáng hoặc gió ngừng thổi.
Mặt khác, hệ thống năng lượng Mặt trời và Gió là năng lượng tái tạo phi tập trung, bao gồm các hệ thống phát điện nhỏ nằm rải rác trên một khu vực rộng lớn, hoạt động cùng nhau để sản xuất điện năng. Lựa chọn một địa điểm thích hợp có
thể
là một thách thức, khiến nó trở
thành một trong những rào cản đối với
NLTT. Các nhà phân phối vẫn có thể đưa ra hai rào cản chính đối với NLTT là phân bố và truyền tải.. .
Có thể nói rằng, các nhà phân phối đang nắm giữ hệ thống hạ tầng phân phối
điện đang tạo nên áp lực đối với các nhà cung ứng SPNLTT. Việc phát triển hệ thống hạ tầng cung ứng SPNLTT hiện đang cần được hỗ trợ từ các chính sách của nhà nước. Đồng thời, việc sử dụng các thiết bị thông minh, định giá theo thời gian thực, pin tiên tiến và các công nghệ lưới điện hiện đại khác cũng sẽ giúp điện Gió và Mặt trời hòa vào lưới điện một cách đáng tin cậy và an toàn và tạo ra qui mô sử dụng mức năng lượng tái tạo cao. Những điều đó sẽ giúp giảm áp lực từ các nhà phân phối.
1.3.2.4. Áp lực từ sản phẩm thay thế
Trên thị trường năng lượng, các sản phẩm năng lượng hóa thạch vẫn là tạo ra một áp lực thay thế lớn đối với năng lượng tái tạo. Điều đó có liên quan đến chi phí vốn đầu tư lớn vào sản xuất, độ tin cậy công nghệ sản xuất và phân phối năng lượng tái tạo. Thực tế, các chính phủ vẫn áp dụng các ưu đãi, trợ cấp, tài trợ cho hoạt động khai thác năng lượng hóa thạch, sản xuất điện để tăng sản lượng trong nước.
Mặt khác, các công ty có thể
gia tăng đầu tư
cho các dự
án sử
dụng năng
lượng hiệu quả hơn như tiết kiệm năng lượng. Điều đó có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của năng lượng tái tạo. Năng lượng gió và mặt trời sẽ được trợ cấp ít hơn và nhận được sự ủng hộ chính trị hơn.
Công nghệ điện NLTT là một hệ thống tạo ra điện sạch, cung cấp nguồn điện phù hợp cho mọi đối tượng tiêu dùng. Tuy nhiên, năng lượng Gió, năng lượng Mặt trời và các NLTT khác vẫn sẽ đối diện với những rào cản hoặc trở ngại cần phải vượt qua.
1.4. Kinh nghiệm của một số nước và bài học cho vùng Trung du miền núi phía Bắc Việt Nam về phát triển thị trường sản phẩm năng lượng tái tạo
1.4.1. Kinh nghiệm của một số nước về phát triển thị trường sản phẩm năng lượng tái tạo
1.4.1.1. Kinh nghiệm tại Ấn Độ
Các tiểu bang tại Ấn Độ khá tương đồng với cấu trúc hành chính từ Chính phủ đến các địa phương ở Việt Nam. Trong giai đoạn đầu Ấn Độ cũng gặp nhiều khó khăn do chính sách chưa có sự nhất quán và rõ ràng từ trên xuống, đặc biệt là các vấn đề về đất đai, phát triển lưới điện để đấu nối và vận hành. Cơ chế đấu thầu theo giá để lựa chọn dự án có giá bán điện thấp nhất cũng có nhiều khó khăn do chính sách và quy định còn chồng chéo, chưa thực sự rõ ràng và bảo vệ nhà đầu tư. Nhiều đợt đấu thầu đã bị hủy kế hoạch thực hiện hoặc nhà đầu tư từ chối phát triển dự án khi đã trúng thầu.
Ấn Độ đã giải quyết các khó khăn và phát sinh trong quá trình thực hiện cơ chế đầu thầu trong gần 10 năm qua, đặc biệt là giai đoạn từ 2016 đến nay, có thể tóm tắt với một số điểm nổi bật như sau: Về trách nhiệm và vai trò tổ chức thực hiện
của các Bộ, ngành (Chính phủ): Bộ Năng lượng mới và tái tạo (MNRE) là Bộ
chuyên ngành có trách nhiệm chính và tập trung đối với tất cả các vấn đề liên quan đến năng lượng tái tạo; Tập đoàn/Tổng công ty Năng lượng mặt trời Ấn Độ (SECI) do MNRE sở hữu 100% được thành lập để thực hiện các kế hoạch và nhiệm vụ phát triển điện mặt trời quốc gia, SECI có trách nhiệm thực hiện các cơ chế của chính phủ, trực tiếp quản lý nguồn Quỹ “Viability Gap Funding” để triển khai thực hiện các dự án lưới điện đấu nối lớn, “Công viên năng lượng mặt trời – Solar Park” và các dự án điện mặt trời mái nhà nối lưới; Bộ Điện lực Ấn Độ (MoP) chịu trách nhiệm chính trong phát triển điện lực ở Ấn Độ.
Chính phủ
ban hành kịp thời nhiều cơ
chế, chương trình hỗ
trợ
và khuyến
khích phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời như:
(i) Ban hành mục tiêu phát triển rất cụ thể “Nation Solar Mission” và cũng đặt ra mục tiêu cụ thể cho từng Bang và các Bang chủ động triển khai quy định về cơ chế bù trừ nhằm tích trữ điện năng thừa trên mức tiêu thụ;
(ii) Phân bổ
nguồn vốn ngân sách cho các dự
án điện mặt trời nối lưới và
không nối lưới ví dụ giai đoạn 20212022 là 351 triệu USD;
(iii) Chính quyền các Bang có trách nhiệm rất rõ ràng trong việc chuẩn bị sẵn
sàng cơ sở hạ tầng (đất đai cho dự án và lưới điện đấu nối);
(iv) Để đảm bảo công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích chủ đầu tư, MNRE ban hành Bộ quy trình hướng dẫn đấu thầu điện mặt trời trên phạm vi toàn quốc “Guidelines for Tariff based Competitive Bidding Process”;
(v) Đối với Quỹ VGF, Chính phủ cung cấp hỗ trợ tài chính dưới hình thức viện trợ không hoàn lại cho các dự án cơ sở hạ tầng (lưới điện đấu nối các dự án điện mặt trời lớn như Solar Park/Ultra Mega Solar Project được thực hiện thông qua hình thức PPP để đảm bảo dự án được khả thi về tài chính, thông thường mức tài trợ sẽ là 20% trong giai đoạn xây dựng (dự án lớn nhất Ấn Độ và Thế giới đang triển khai thực hiện có quy mô 30 GW);
(vi) Thực hiện cơ chế REC kèm theo nghĩa vụ phải mua của các đơn vị.
Sự phát triển mạnh mẽ của NLTT tại Ấn Độ trong những năm qua cũng có tác động không nhỏ của việc chuyển đối mô hình phát triển dựa vào chi phí đầu tư (Capex) sang mô hình chi phí hoạt động (Opex).
Tổ chức đấu thầu cả cho điện mặt trời mái nhà để tạo ra thị trường phát triển cho ĐMT áp mái, trong đó Chính phủ ban hành cơ chế hỗ trợ “Subsidy Scheme” từ 2040% vốn đầu tư tùy theo quy mô công suất lắp đặt của khách hàng. Vấn đề quan trọng là “Giải quyết tranh chấp, khiếu nại, kiện tụng”. Mục tiêu của đấu thầu rất rõ ràng như giá thấp chất lượng, cạnh tranh, công bằng, minh bạch thì yêu cầu về các quy định liên quan đến giải quyết tranh chấp càng phải cụ thể và chặt chẽ. Ở Ấn Độ có Ủy ban Điều tiết Trung ương và mỗi Bang cũng có một Ủy ban phân cấp để giải quyết các tranh chấp. Một số nguyên tắc chính để giải quyết cho các tranh chấp trong lĩnh vực năng lượng tái tạo như sau: (i) Chính phủ cho phép các bên chủ động giải quyết tranh chấp với các điều kiện và ràng buộc mở để các bên có thể đạt được các thỏa thuận tối đa, phương thức hòa giải tranh chấp được ưu tiên hàng đầu với các nguyên tắc và hướng dẫn cụ thể theo từng giai đoạn thực hiện dự án;
(ii) Các hiệp ước song phương, đa phương và các điều ước quốc tế hoặc hòa giải quốc tế được áp dụng trong các trường hợp nhà đầu tư nước ngoài; (iii) Một Ủy ban giải quyết tranh chấp trong hợp đồng được thành lập với nhiệm vụ tham vấn cho các bên; (iv) Ban hành Quy trình hướng dẫn xử lý các tranh chấp mang tính điển hình để các bên tham khảo thực hiện.
Thị
trường
Pin năng lượng
Mặt trời của
Ấn Độ
đã được thúc đẩy bởi một
chương trình lâu dài của chính phủ về trợ cấp, thuế và các ưu đãi tài chính cho khu vực tư nhân. Khi qui mô thị trường tăng lên, các chính sách bắt đầu ủng hộ các cách