nào trên thế giới hoạt động tốt như cơ chế thị trường. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách cần chú ý đến các yếu tố thị trường để hoạch định và duy trì sự ổn định của chính sách.
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO VÙNG TRUNG DU MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
2.1. Các yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến phát triển thị trường sản phẩm năng lượng tại tạo vùng Trung du miền núi phía Bắc Việt Nam
2.1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế miền núi phía Bắc Việt Nam
2.1.1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên
xã hội vùng Trung du
Về mặt hành chính, vùng Trung du miền núi phía Bắc bao gồm 14 tỉnh Hà
Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Đây là vùng lãnh thổ có diện tích lớn nhất nhất của cả nước 100.956 km2 chiếm khoảng 28,6 % diện tích cả nước.
Vùng Trung du miền núi phía Bắc có vị trí địa lý khá đặc biệt, giáp với 3 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam của Trung Quốc ở phía Bắc, phía Tây giáp Lào, phía Nam giáp Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ.
Có thể bạn quan tâm!
- Áp Lực Từ Phía Cung Ứng Thiết Bị Sản Xuất Sản Phẩm Năng Lượng Tái
- Kinh Nghiệm Về Phát Triển Sản Phẩm Năng Lượng Tái Tạo ( Khí Biogas,
- Phát Triển Thị Trường Spnltt Và Vấn Đề Trợ Cấp Thiết Bị
- Tác Động Đến Mức Giá Sản Phẩm Năng Lượng Tái Tạo
- Thực Trạng Phát Triển Nguồn Cung Năng Lượng Địa Nhiệt.
- Thực Trạng Chính Sách Thương Mại Và Giá Cả Sản Phẩm Năng Lượng Tái
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
Vùng có tài nguyên thiên nhiên đa dạng, có khả năng đa dạng hóa cơ cấu kinh tế, với thế mạnh về công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, thủy điện, nền nông nghiệp nhiệt đới có cả những sản phẩm cận nhiệt và ôn đới, phát triển tổng hợp kinh tế biển và du lịch.
Trong đó: Tây Bắc là một vùng gồm chủ yếu là núi trung bình và núi cao. Đây là nơi có địa hình cao nhất, bị chia cắt nhất và hiểm trở nhất Việt Nam. Các dạng địa hình phổ biến ở đây là các dãy núi cao, các thung lũng sâu hay hẻm vực, các cao nguyên đá vôi có độ cao trung bình.
Vùng đồi núi Đông Bắc gồm chủ yếu là núi trung bình và núi thấp. Khối núi thượng nguồn sông Chảy có nhiều đỉnh cao trên dưới 2000m là khu vực cao nhất của vùng. Từ khối núi này ra tới biển là các dãy núi hình cánh cung thấp dần về phía biển.
Các sông suối có trữ năng thủy điện khá lớn. Hệ thống sông Hồng (11 triệu kW) chiếm hơn 1/3 trữ năng thủy điện của cả nước. Riêng sông Đà chiếm gần 6 triệu kW. Nguồn thủy năng lớn này đã và đang được khai thác. Nhiều nhà máy
Thủy điện nhỏ đang được xây dựng trên các phụ lưu của các sông.
Việc phát triển Thủy điện sẽ tạo ra động lực mới cho sự phát triển của vùng.
Nhưng cần chú ý đến những thay đổi không nhỏ của môi trường.
Hình 2.1. Bản đồ địa lý vùng Trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam
Nguồn: Báo ảnh Dân tộc Miền núi, 2017.
2.1.1.2. Tổng quan về phát triển kinh tế
Năm 2020, quy mô tổng sản phẩm của vùng đạt 689,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,71 lần so với năm 2015. Tốc độ tăng trường tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) khá cao và liên tục qua các năm (giai đoạn 20162020, tốc độ này của vùng đã đạt tới 9%, cao hơn mức trung bình cả nước). Một số địa phương có quy mô GRDP cao như: Thái Nguyên (125,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng GRDP cả vùng); Bắc Giang (121,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 17,6%). Bắc Kạn, Cao Bằng, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái là những địa phương có quy mô GRDP nhỏ, chiếm từ 1,9% 4,8% quy mô toàn vùng. Quy mô GRDP giai đoạn 2016 2020 tăng lên 2.868.178 tỷ đồng.
Về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khu vực TDMNPB đã có sự
phát triển rất
ấn tượng trong chuyển đổi cơ
cấu kinh tế
nông nghiệp. Khu vực
TDMNPB đã hình thành được một số vùng sản xuất hàng hóa, vùng chuyên canh tập trung gắn với công nghiệp chế biến và đảm bảo an ninh lương thực. Ngành nông nghiệp cung cấp lương thực cho hơn 12 triệu người và góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho khoảng 3 triệu người. Các địa phương trong vùng không những đảm bảo an ninh lương thực tại vùng mà trở thành một phần hàng hóa
đặc sản cung cấp cho cả nước, kể cả xuất khẩu. Vùng TDMNPB là vùng trồng chè lớn thứ nhất cả nước, đồng thời cũng là vùng cây ăn quả lớn thứ 2 toàn quốc (sau đồng bằng sông Cửu Long), với nhiều vùng cây ăn quả hàng hóa tập trung quy mô
lớn phục vụ xuất khẩu như: Vải thiều (Bắc Giang), Nhãn (Sơn La), Cam (Hà
Giang, Hòa Bình), Na (Lạng Sơn), Xoài (Sơn La)... Bên cạnh đó, tổ chức sản xuất của các tỉnh đã thay đổi, hình thành các hợp tác xã chuyên từng ngành hàng gắn kết với doanh nghiệp và người nông dân.
Các địa phương trong vùng cũng tích cực thực hiện tái cơ cấu trong lĩnh vực chăn nuôi, chuyển dần từ nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển chăn nuôi tập trung theo trang trại, gia trại. Đáng chú ý, hiện nay, vùng TDMNPB đã trở thành vùng trọng điểm về lâm nghiệp; Từ năm 2004 đến nay, bình quân hằng năm, toàn vùng trồng thêm khoảng 100.000ha và bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có. Nhờ đó, tỉ lệ che phủ rừng đã tăng từ 42,9% năm 2004 lên 55,6% năm 2018.
Trong đầu tư phát triển, các tỉnh trong vùng TDMNPB đã chú trọng nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng các nguồn vốn đầu tư nhà nước, đồng thời tạo điều kiện thu hút các nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để đảm bảo huy động cao nhất các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Năm 2020, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội toàn vùng đạt 278,3 nghìn tỷ đồng. Đầu tư nước ngoài vào vùng đạt 148 dự án, trong đó Bắc Giang, Phú Thọ và Thái Nguyên thu hút nhiều dự án nhất. Quy mô GRDP của vùng tương đối nhỏ, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực nhưng vẫn còn chậm. GRDP bình quân đầu người ở mức thấp so với cả nước, năm 2020 đạt 54,2 triệu đồng. Mật độ doanh nghiệp đạt 2,7 doanh nghiệp/1.000 dân trong độ tuổi lao động, là mật độ thấp nhất so với các vùng khác trên cả nước. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, có bằng cấp chứng chỉ ở mức thấp…
Từ những chính sách đầu tư, bộ mặt của vùng đã có sự thay đổi lớn, kinh tế xã hội có bước phát triển, đời sống người dân từng bước được nâng lên. Nhưng trên thực tế, nhiều chính sách được đầu tư để phát triển kinh tế xã hội của vùng chưa tạo sự đột phá. Tính GRDP bình quân đầu người trong khu vực này ở mức thấp so với cả nước, năm 2020 đạt 54,2 triệu đồng. Mật độ doanh nghiệp đạt 2,7 doanh nghiệp/1.000 dân trong độ tuổi lao động, là mật độ thấp nhất so với các vùng khác trên cả nước.
Tại thời điểm ngày 31/12/2020, toàn vùng có 26.470 doanh nghiệp đang hoạt
động có kết quả sản xuất kinh doanh. Trong đó các tỉnh tập trung nhiều doanh
nghiệp là Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên. Toàn vùng có 7,8 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên, tỷ lệ thất nghiệp năm 2020 ở mức 0,95%, thấp nhất so với các vùng khác và thấp hơn nhiều so với tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước (2,48%). Tuy nhiên, lực lượng doanh nghiệp trong khu vực Trung du miền núi phía Bắc được xếp ở vị trí 5/6 so với các vùng kinh tế trong cả nước và chỉ đứng trên khu vực Tây
Nguyên. Quy mô chất lượng doanh nghiệp đa phần là doanh nghiệp nhỏ và siêu
nhỏ, hoạt động hiệu quả không cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn diễn ra chậm. Phần lớn các tỉnh trong khu vực được xếp ở nhóm khá hoặc trung bình. Trong số 10 tỉnh đứng cuối trong bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh của Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam có 5 tỉnh thuộc vùng.
Hệ thống đường ô tô bao gồm các tuyến quốc lộ Quốc lộ 2 dài 312 km chạy từ Hà Nội Việt Trì Phú Thọ Tuyên Quang Mèo Vạc, đi qua các thành phố công nghiệp và địa bàn giàu khoáng sản, lâm sản và vùng chăn nuôi gia súc lớn; Quốc lộ 3 Hà Nội Thái Nguyên Bắc Cạn Cao Bằng Thuỷ Khẩu dài 382 km, nối liền vùng kim loại màu với Thái nguyên và Hà Nội;
Quốc lộ 18 (ngang) Bắc Ninh Uông Bí Đông Triều Móng Cái đi qua vùng sản xuất than đá và điện lực của vùng; Quốc lộ 4 (ngang) từ Mũi Ngọc Móng Cái Lạng Sơn Cao Bằng Đồng Văn đi qua vùng cây ăn quả, và nối liền với cửa khẩu Việt Trung...; Đường 3A(13A) từ Lạng Sơn Bắc Sơn Thái Nguyên Tuyên Quang
Yên Bái gặp đường số 2 có ý nghĩa về mặt kinh tế vùng trung du và quốc phòng; Quốc lộ 6 Hà Nội Hoà Bình Sơn La Lai Châu dài 425 km; Quốc lộ 37 chạy từ Chí Linh (Hải Dương) đi Sơn La dài 422 km. Quốc lộ 4D chạy dọc tuyến biên giới phía Bắc nối với Sapa Lào Cai;...
Hệ thống đường sắt Tuyến Hà Nội Đồng Đăng dài 123 km, nối với ga Bằng Tường (Trung Quốc), đây là tuyến đường sắt quan trọng trong việc tạo ra các mối liên hệ qua một số khu vực kinh tế và quốc phòng xung yếu Bắc Giang Chi lăng Lạng Sơn; Tuyến Hà Nội Việt Trì Yên Bái Lào Cai;
2.1.1.3. Tổng quan về điều kiện xã hội
Theo kết quả Tổng Điều tra dân số năm 2019, tổng số dân của Việt Nam là
96.208.984 người. Trong đó dân số
vùng TDMNPB là
12.569,3 người, chiếm
13,03% cả nước. Các tỉnh có số lượng dân số chiếm tỷ trọng cao nhất trong vùng là
Bắc Giang (14,40%), Phú Thọ (11,67%), Thái Nguyên (10,27%), Sơn La (9,97%).
Các tỉnh có số
lượng dân số
chiếm tỷ
trọng thấp nhất trong vùng là Bắc Cạn
(2,5%), Lai Châu (3,68%) và Cao Bằng (4,22%).
Trung du và miền núi phía Bắc là địa bàn sinh sống chủ yếu của người dân tộc thiểu số, có tỷ lệ di cư cao, trong đó phần lớn nhập cư vào Đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn 20092019 (209,3 nghìn người, chiếm 61,2% số người nhập cư vào Đồng bằng sông Hồng). Mật độ dân số của Việt Nam là 290 người/km2, tăng 31 người/km2 so với năm 2009. Vùng TDMNPB có mật độ dân số thấp nhất, tương ứng là 132 người/km2 bằng 45,36% mật độ dân số cả nước. Các tỉnh có mật độ dân số cao hơn cả nước là Bắc Giang (1,59 lần), Phú Thọ (1,42 lần), Thái Nguyên (1,26 lần). Các tỉnh còn lại đều có mật độ dân số thấp. Dân số thành thị là 33.122.548 người, chiếm 34,4% tổng dân số cả nước; dân số nông thôn là 63.086.436 người, chiếm 65,6%. Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ dân số thành thị thấp nhất
(18,2%), Bắc Giang là một trong các tỉnh có tỷ lệ nước (11,4%).
dân số
thành thị
thấp nhất cả
2.1.2. Đánh giá tác động các điều kiện tự nhiên, xã hội và phát triển kinh tế đến tiềm năng phát triển thị trường sản phẩm năng lượng tái tạo chủ yếu vùng Trung du miền núi phía Bắc
2.1.2.1. Tác động đến tiềm năng phát triển sản xuất, cung ứng sản phẩm NLTT
Các điều kiện tự
nhiên cho thấy vùng TDMNPB có tiềm năng lớn về
phát
triển nguồn cung NLTT, đặc biệt là tiềm năng lớn về Thủy điện. Trong đó, tiềm
năng Thủy điện qui mô nhỏ
và cực nhỏ
được phân bố
rông khắp các tỉnh trong
vùng. Các tiềm năng NLTT (NLMT, Gió, Địa nhiệt, Sinh học) chỉ ở mức trung bình và phục vụ cho nhu cầu năng lượng qui mô nhỏ, phân tán ở qui mô trang trại, các hộ gia đình. Cụ thể:
1) Tiềm năng về Thủy điện: Với điều kiện địa hình chia cắt, sông suối nhiều và có độ chênh lệch lớn về dòng chảy, tạo ra thủy năng mạnh, theo khảo sát điều tra, vùng đồng bằng và TDMNPB có tiềm năng cao về phát triển thủy điện vượt trội cao so với các loại NLTT khác trong vùng và so với cả nước. Trong đó, tiềm năng Thủy điện lớn đã được khai thác, còn lại chủ yếu là tiềm năng TĐN và cực
nhỏ với công suất ≤30MW. Hiện có khoảng 10.612 vị trí với tổng công suất có thể
lắp đặt khoảng 371,40 MW (quy mô công suất từ 200W÷ 30MW/trạm). Cụ thể, các tỉnh có tiềm năng TĐN, bao gồm: Phú Thọ; Tuyên Quang; Yên Bái; Bắc Kạn; Thái Nguyên; Hoà Bình.
2) Tiềm năng về điện Gió: Dựa vào dữ liệu từ các trạm khí tượng thuỷ văn,
tiềm năng điện Gió tại vùng TDMNPB được đánh giá là không cao, trong vùng tốc độ gió phù hợp cho phát triển điện Gió chỉ có khu vực cửa khẩu Tây Trang (Điện Biên).
3) Tiềm năng về điện Mặt trời: Các tỉnh vùng TDMNPB có lượng BXMT khác
nhau và thay đổi theo mùa. Đông Bắc số giờ nắng trong năm 1.600 1.750 giờ ,
Cường độ
BXMT (kWh/m2, ngày) là 3,3 – 4,1. Tây Bắc số
giờ
nắng trong năm
1.7501.800 giờ, Cường BXMT (kWh/m2, ngày) là 4,1 4,9. Các tỉnh có số giờ nắng cao nhất là các tỉnh Điện Biên, Sơn La, thời điểm trong năm khai thác hiệu quả NLMT khu vực này là vào tháng 3 tháng 9, trong khi vào các tháng mùa đông hiệu quả khai thác là rất thấp.
4) Tiềm năng về năng lượng Sinh khối: Với diện tích rừng hiện có và tốc độ phát triển rừng trồng trong giai đoạn vừa qua, vùng Trung du Bắc Bộ là vùng giàu tiềm năng sinh khối (NLSK), đặc biệt là củi vẫn là nguồn chất đốt quan trọng cho đun nấu và chế biến nông sản ở các vùng nông thôn, phụ phẩm nông nghiệp như trấu, rơm rạ, bã mía, thân cây đậu... Ngoài ra, NLSK có nguồn gốc động vật (phân động vật, phụ phẩm lò mổ, chế biến thực phẩm… ) có thời gian phân huỷ không dài và năng suất KSH cao. Hầu hết các tỉnh vùng hiện đang chuyển dịch chăn nuôi theo hướng khuyến khích và tăng chăn nuôi tập trung như trang trại, gia trại quy mô vừa và nhỏ. Nếu các trang trại đều áp dụng công nghệ KSH để xử lý chất thải và thu hồi năng lượng thì sản lượng KSH trung bình hàng năm vào khoảng 931.738.238 m3/năm, tương đương 521.773 TOE cho việc cấp nhiệt.
5) Tiềm năng về sản xuất nhiên liệu Sinh học: Vùng nguyên liệu sắn cho Nhà
máy sản xuất Ethanol tập trung ở các tỉnh TDMNPB bao gồm 7 tỉnh: Điện Biên,
Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Yên Bái và Tuyên Quang. Tiềm năng lý thuyết sản xuất ethanol của vùng đến năm 2020 có thể lên đến 248 triệu lít/năm. Tuy nhiên, quy hoạch quỹ đất của các tỉnh, diện tích trồng sắn sẽ không tăng.
6) Tiềm năng về
năng lượng Địa nhiệt:
Trong số
các tỉnh vùng TDMNPB
trong nghiên cứu này chỉ có 7 tỉnh có tiềm năng về năng lượng Địa nhiệt. Tây Bắc có 79 nguồn Địa nhiệt, trong đó xét theo cấp nhiệt độ thì chỉ có 3 nguồn thuộc loại nước rất nóng (2 nguồn thuộc tỉnh Điện Biên, 1 nguồn thuộc tỉnh Tuyên Quang), còn lại 34 nguồn nước nóng vừa và 32 nguồn nước ấm.
2.1.2.2. Tác động đến nhu cầu sử dụng sản phẩm năng lượng tái tạo
Trên địa bàn các tỉnh vùng TDMNPB, năng lượng tái tạo đã được biết đến và
sử dụng rộng rãi trong sản xuất và sinh hoạt nhờ tiềm năng lớn về NLTT, đặc biệt là năng lượng Thủy và năng lượng Sinh khối (gỗ, củi). Tuy nhiên, xét về phương diện thị trường SPNLTT, các yếu tố về điều kiện, tự nhiên, kinh tế xã hội đang và sẽ có một số tác động chủ yếu đến nhu cầu thị trường SPNLTT như:
1) Tổng qui mô nhu cầu tiềm năng trên thị trường năng lượng nói chung các sản phẩm NLTT của vùng TDMNPB thấp hơn so với mức trung bình cả nước. Bởi vì, qui mô nhu cầu trên thị trường nói chung phụ thuộc vào qui mô dân số, mức thu nhập và khả năng chi trả của người dân.
Thực tế
cho thấy, tại vùng TDMNPB, mặc dù qui mô dân số
năm 2019 là
12.569,3 người, chiếm 13,03% cả nước, nhưng mật độ dân số thấp cộng với xu hướng giảm dân số cơ học và mức qui mô GRDP và mức thu nhập bình quân đầu người còn thấp. Đồng thời, trong cơ cấu kinh tế chung của các tỉnh thì tỷ trọng các ngành ít tiêu dùng năng lượng nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng khá cao.
Do đó, xét về qui mô dân số và mức thu nhập thực tế chung của các tỉnh vùng TDMNPB thì qui mô và mật độ nhu cầu sử dụng sản phẩm NLTT hiện tại còn khá thấp so với mức trung bình cả nước.
2) Nhu cầu, tiềm năng về sản phẩm năng lượng tái tạo vùng TDMNPB
Trong giai đoạn vừa qua, vùng TDMNPB đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao và quá trình chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển
nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đồng thời, số lượng doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp, dịch vụ cũng như các trang trại trong vùng TDMNPB cũng đang có xu hướng gia tăng nhanh. Đây là những yếu tố làm gia tăng nhanh lượng
khách hàng tiềm năng là các tổ
chức, doanh nghiệp trên thị
trường năng lượng.
Đồng thời, triển vọng gia tăng thu nhập của các hộ gia đình trong vùng sẽ làm gia tăng nhu cầu sử dụng các sản phẩm, thiết bị sử dụng điện kéo theo sự gia tăng nhu cầu sử dụng năng lượng điện. Xu hướng gia tăng nhu cầu tiềm năng sẽ kích thích phát triển nguồn cung SPNLTT và do đó sẽ là tăng tỷ trọng nhu cầu về SPNLTT trong vùng.
3) Nhu cầu tiêu dùng sản phẩm NLTT trong vùng TDMNPB sẽ thúc đẩy nhu cầu về các thiết bị chuyển đổi sản phẩm NLTT qui mô vừa và nhỏ.
Tiềm năng NLTT của vùng TDMNPB chủ yếu là Thủy điện, trong đó tiềm năng Thủy điện lớn đã được khai thác, còn lại chủ yếu là tiềm năng thủy điện nhỏ.