1.4.2.2. Du lịch cộng đồng Bản Lác, Mai Châu, tỉnh Hòa Bình
Bản Lác Mai Châu là nơi in đậm bản sắc văn hóa người Thái trắng, với năm dòng họ sinh sống là Hà, Lò, Vì, Mác, Lộc. Tới nay bản đã tồn tại được 700 năm. Trước đây dân bản chỉ sống dựa và nghề trồng lúa nương và dệt thổ cẩm. Sau này, vẻ đẹp tiềm ẩn của bản Lác đã dần được du khách khám phá. Và cũng từ đó mọi người trong bản đều làm du lịch và cái tên bản Lác là một trong những vùng trọng điểm về du lịch ở Mai Châu, rộng hơn nữa nhiều người ví nơi đây như một “điểm sáng” trên bản đồ du lịch Việt Nam.
Những năm trở lại đây, khách du lịch đến Mai Châu mỗi ngày một đông, chính vì thế dân bản thường bảo nhau sửa sang nhà cửa, như xây dựng nhà sàn và sử dụng các nguyên vật liệu cho ngôi nhà cũng được cải tiến (sàn gỗ công nghiệp, chân nhà có ốp xi măng…), các trang thiết bị trong nhà cũng hiện đại hơn, với mục đích để làm cho khách đến sống thấy thoải mái nhất. Tuy nhiên, những ngôi nhà sàn hiện nay không bị thay đổi quá nhiều mà vẫn giữ được cái “mộc” của nó.
Bên cạnh đó, người dân ở bản Lác cũng quan tâm hơn đến ẩm thực truyền thống của bản, thành lập những đội văn nghệ chuyên phục vụ khách tham quan. Từ chỗ chỉ dệt những chiếc khăn, chiếc áo thổ cẩm để mặc, phụ nữ trong bản đã tự làm nhiều đồ lưu niệm bán cho khách như dệt khăn quàng cổ, váy xòe Thái, vải treo tường có trang trí, dây đeo tay và những chiếc ví xinh xắn.
Theo đó, đàn ông Thái cũng “vào cuộc”, họ chế tác nhiều cung, nỏ, mõ trâu, chiêng, tù và sừng trâu, phách gỗ nhịp tre… để làm quà lưu niệm cho khách tham quan. Do vậy, nghề truyền thống, các sản phẩm thủ công đã và đang được bảo tồn
và phát triển ở đây. Loại hình du lịch homestay sống trong chính ngôi nhà của
người dân cũng dần được du khách ưa chuộng, đặc biệt là khách quốc tế.
Mặc dù đã có nhiều năm làm dịch vụ du lịch, nhưng sự xô bồ của đồng tiền,
của miếng cơm manh áo hầu như
không làm mất đi sự
thật thà, chân chất của
những người dân tộc vùng núi này. Cung cách đón khách cũng là điều hấp dẫn với nhiều du khách, nhất là du khách nước ngoài.
Hiện tại ở bản Lác có 25 ngôi nhà sàn làm “khách sạn” được xây cất theo quy hoạch, mỗi “khách sạn” đều được đánh số theo thứ tự từ 1 đến 25. Du lịch gần như là nguồn thu chính của bà con nơi đây. Nhà sàn ở bản Lác được dát bằng tre
rộng mênh mông, cao ráo, sạch sẽ và giữ được truyền thống kiến trúc cổ. Bên trong có đầy đủ chăn, đệm, gối được gấp ngăn nắp, gọn gàng. Sát cạnh sàn ngủ nghỉ là sàn ngồi để ăn cơm và uống trà.
Ẩm thực: rượu cần, ăn cơm lam với thịt nướng, kèm theo rất nhiều món ăn dân tộc như gà gói lá dong nướng, cá suối hấp, măng đắng xào, xôi nếp nương…
Đêm đến, du khách lại được hòa mình trong không gian của người Thái với những điệu xòe, những câu ca đằm thắm và điệu nhạc tình tứ, mê đắm lòng người hay cùng người bản địa nhảy sạp.
Chính quyền địa phương Mai Châu đã đầu tư vào hạ tầng cơ sở, hoạt động du lịch do các công ty du lịch ở Hà Nội thâu tóm. Mỗi hộ gia đình làm du lịch đều có mối quan hệ mật thiết với một số công ty du lịch nhất định ở Hà Nội để cung cấp khách. Thu nhập của các hộ làm du lịch là từ dịch vụ ăn uống, lưu trú và bán hàng thổ cẩm. Mô hình du lịch cộng đồng tại đây chủ yếu do người dân tự tổ chức và tiến hành là chính. Chính quyền và cộng đồng làng bản có hỗ trợ nhưng không trực tiếp đứng ra tổ chức điều phối các hoạt động thu hút và phục vụ du khách.
1.4.3. Bài học kinh nghiệm thành công rút ra từ các mô hình phát triển du lịch bền vững
√. Thành phố Kyoto Nhật Bản
Công tác tu bổ, bảo tồn và phát huy các di tích lịch sử văn hoá là quyết định thành công đến phát triển du lịch của thành phố này. Chính quyền sở tại quan tâm đến việc tổ chức các lễ hội để thu hút du khách, cùng với đó là những bữa tiệc trà, những buổi liên hoan với nhiều món ăn truyền thống với cách chế biến phong phú.
Chính quyền thành phố chủ trương không phát triển các ngành công nghiệp nặng bởi vì lo sợ sẽ gây ô nhiễm môi trường, ưu tiên phát triển các ngành nghề truyền thống, điêu khắc, chế tác kim loại chạm khảm... phục vụ khách du lịch.
Kết nối hệ thống giao thông trong nội thành phố và với các thành phố khác rất thuận tiện và hiện đại như: tàu điện ngầm, xe buýt công cộng, xe buýt du lịch hoặc taxi. Đi xe đạp, cũng là một cách tham gia giao thông của khách du lịch và người dân trong thành phố được chính quyền quan tâm.
√.Thành phố Madrid Tây Ban Nha: Thành công của thành phố này là chính quyền rất quan tâm tới bảo vệ môi trường, thành phố được xem như là một công viên cây xanh khổng lồ, rất thân thiện với môi trường.
√. Thành phố Hội An Quảng Nam: Chính quyền Hội An đã có những quy định nhằm bảo tồn di tích kiến trúc, giữ gìn cảnh quan phố cổ. Những quy định này cũng cản trở việc tự do buôn bán và đi lại của các hộ kinh doanh và người dân rất nhiều. Nhưng về lâu dài, sẽ tạo niềm thích thú cho du khách khi có một khu phố cổ trật tự, văn minh, hài hòa cổ kính. Vì vậy, việc hạn chế bớt một số tự do để hướng tới lợi ích lâu dài cho cư dân cũng rất cần thiết.
√. Bản Lác, Mai Châu, tỉnh Hòa Bình: Thành công của du lịch cộng đồng Bản Lác là người dân tộc bản địa trực tiếp làm du lịch tại ngôi nhà của mình, dưới sự
quản lý chung của cộng đồng. Ẩm thực được chế biến bằng các nguyên liệu tại
chổ do người dân bản sản xuất ra như: heo, gà, rau rừng, cá suối...Bên cạnh đó, du khách được thưởng thức các tiết mục văn nghệ truyền thống do chính người dân tộc địa phương biểu diễn và mua những món hàng lưu niệm do người địa phương làm ra như: khăn quàng cổ, áo thổ cẩm, váy xòe Thái, vải treo tường có trang trí, dây đeo tay... Khách du lịch rất thích thú với mô hình du lịch này.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN
2.1. Tổng quan về Tây Nguyên
Tây Nguyên bao gồm năm (5) tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk
Nông và Lâm Đồng với tổng diện tích tự nhiên là 54,640.6km2 và dân số là 5,2 triệu người chiếm khoảng 16,5% diện tích và 6% dân số toàn quốc [42]. Đây là vùng có mật độ dân số thấp nhất toàn quốc. Tuy vậy, khu vực Tây Nguyên lại có một vị trí địa lý khá chiến lược. Tây Nguyên là giao điểm của hai khu vực kinh tế trọng điểm của Việt Nam, ở phía Nam là khu vực kinh tế phía Nam với Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trọng điểm và ở phía Bắc với khu vực kinh tế ven biển miền Trung với Thành phố Đà Nẵng là trung tâm. Tây Nguyên là vùng cao nguyên thuộc sườn phía Tây dãy Trường Sơn, tiếp giáp với Lào và Campuchia. Vì thế, Tây Nguyên trở thành một phần của Tam giác Phát triển Campuchia Lào Việt Nam (CLV). Do các Quốc gia này lại nằm trên hành lang kinh tế Đông Tây cùng với Thái Lan và Myanmar, nên khu vực Tây Nguyên còn được xem là rất quan trọng nếu xét trong quan hệ với khu vực tiểu vùng sông Mê Kông (GMS).
Hình 02: Bản đồ khu vực Tây Nguyên
Đây là vùng có tiềm năng rất lớn để phát triển lĩnh vực nông lâm thủy sản, thủy điện, khai khoáng, và du lịch. Tuy nhiên, Tây Nguyên vẫn chưa tận dụng và phát huy được hết các thế mạnh của mình. Tây Nguyên chỉ đóng góp 4,5% nếu xét về Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), và đây mức thấp nhất nếu so sánh với các vùng khác trên toàn quốc [42]. Tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người cũng thấp hơn mức trung bình toàn quốc. Bên cạnh đó, tỉ lệ hộ nghèo trong vùng đang đứng cao thứ hai so sánh với các khu vực khác. Tình trạng trì trệ của nền kinh tế gây ra bởi nguyên nhân nền kinh tế còn phụ thuộc quá
nhiều vào lĩnh vực nông nghiệp và năng suất lao động chưa cao. Đây cũng là
khu vực thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thấp nhất vì lý do khó
khăn về vị trí địa lý và thiếu hụt về cơ sở hạ tầng. Việc không thu hút nhiều vốn FDI cũng ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ phát triển kinh tế của khu vực.
Một trong những đặc điểm của vùng đó là sự có mặt của nhiều dân tộc thiểu số. Theo thống kê năm 2009, có khoảng 45 dân tộc anh em sinh sống tại vùng, chiếm 34,8% tổng dân số, trong đó dân tộc bản địa chiếm 26,6% [41]. Ngoài ra, tình trạng di dân tự do từ các khu vực khác trong toàn quốc và tình
hình chính trị còn phức tạp cũng là những lý do của vùng Tây Nguyên.
ảnh hưởng đến sự phát triển
Bảng 2.1. Một số thông số của khu vực Tây Nguyên
ĐVT | Toàn quốc | Tây Nguyên | |
Diện tích (2012) | Km2 | 330.957,6 | 54.641,0 |
(%) | 100 | 16,5 | |
Dân số (2012) | 1.000 người | 88.772,9 | 5.379,6 |
(%) | 100 | 6,06 | |
Tỷ lệ TT (%) GĐ (20062012) | 0,89 | 1,39 | |
Mật độ dân số (2012) | Người/km2 | 268 | 99 |
Tăng trưởng GDP (2012) | % | 5,25 | 10,77 |
Tỷ lệ hộ nghèo (2012) | (%) | 12,6 | 20,3 |
Thu nhập BQ đầu người/ tháng (giá hiện hành) | Nghìn đồng | 2000 | 1.631 |
Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm (%) | Tổng số | 3,27 | 2,89 |
Thành thị | 3,21 | 1,89 | |
Tuổi thọ trung bình | Năm | 73 | 69,4 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Yếu Tố Tác Động Đến Việc Phát Triển Du Lịch Bền Vững
- Xác Định Nội Dung Hợp Tác, Liên Kết Phát Triển Du Lịch Bền Vững
- Khu Sinh Thái Rừng Mưa Chilamate Nam Mỹ
- Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Bền Vững Tây Nguyên
- Các Thị Trường Khách Quốc Tế Đến Các Tỉnh Tn (Năm 2012)
- Cơ Chế, Chính Sách Và Môi Trường Đầu Tư Phát Triển Du Lịch Bền Vững Tây Nguyên
Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.
Tỷ đồng | 989.300 | 47.740 | |
Hệ số ICOR (2011) | 5,53 | 4,65 |
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2012
Bảng 2.2. Số lượng đơn vị hành chính 5 tỉnh ở vùng Tây Nguyên
Cấp huyện | Cấp cơ sở | |||||
Thành phố trực thuộc tỉnh | Thị xã | Huyện | Phường | Thị trấn | Xã | |
Tây Nguyên | 5 | 4 | 52 | 77 | 47 | 598 |
Kon Tum | 1 | 0 | 8 | 10 | 6 | 81 |
Gia Lai | 1 | 2 | 14 | 24 | 12 | 186 |
Đăk Lăk | 1 | 1 | 13 | 20 | 12 | 152 |
Đăk Nông | 0 | 1 | 7 | 5 | 5 | 61 |
Lâm Đồng | 2 | 0 | 10 | 18 | 12 | 118 |
2012.
N guồn: Niên giám thống kê các tỉnh Tây Nguyên năm
2.2. Điều kiện kinh tế xã hội ảnh hưởng đến phát triển du lịch bền
vững Tây Nguyên
2.2.1. Tăng trưởng kinh tế
Thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng; Nghị quyết
10 NQ/TN của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh,
quốc phòng vùng Tây Nguyên thời kỳ 20012010; Quyết định số 25/2008/QĐTTg quy định một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội đối với các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2010. Nhờ các chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà
nước,
với sự nỗ lực
của Đảng bộ, chính quyền
và nhân dân các dân tộc trong
vùng, kinh tế Tây
Nguyên có những chuyển biến
căn bản
trên nhiều lĩnh vực.
Kinh tế liên tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, sản xuất công nghiệp phát triển, năng lực sản xuất chế biến nông, lâm sản, thực phẩm được nâng cao; cơ sở hạ tầng từng bước được cải thiện và phát triển…
Tốc độ
tăng trưởng kinh tế
trung bình vùng Tây nguyên giai đoạn (2001
2012) là trên 11,75%. Trong đó đóng góp của các ngành năm 2012 là: công nghiệp xây dựng (39,9%); nông lâm thủy sản (31,9%) và dịch vụ (28,2) [25].
2.2.1.1. Nông lâm nghiệp
Tây Nguyên là vùng sản xuất hàng đầu về nhiều loại cây công nghiệp ở Việt Nam. Đây là nơi sản xuất trên 90% cà phê nhân ở Việt Nam, nước sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới. Tây Nguyên cũng là vùng sản xuất chính các cây công nghiệp khác như hồ tiêu (47,69%), chè (23,52%), điều (20,58%) và cao su (18,19%). Tất cả các cây trồng trên đã đóng góp đáng kể vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của vùng.
Các khu vực lân cận thành phố Đà Lạt ở tỉnh Lâm Đồng là các vùng sản xuất rau và hoa lớn. Trong những năm gần đây người trồng rau và hoa đã áp dụng các công nghệ cao vào các khâu trồng, đóng gói và bảo quản nhằm tăng sản lượng, chất lượng và giảm tổn thất sau thu hoạch.
Lâm nghiệp tại vùng Tây Nguyên có xu hướng giảm cả diện tích và chất lượng rừng đều suy giảm. Gần đây chính quyền các tỉnh đang cố gắng đẩy mạnh trồng rừng và quản lý rừng dựa vào cộng đồng. Nỗ lực này đã có những kết quả bước đầu và sản xuất lâm nghiệp đã có xu hướng tăng trở lại. N g à n h chăn nuôi của vùng Tây Nguyên mang đặc trưng của kiểu chăn nuôi nhỏ lẻ truyền thống qui mô nhỏ và chăn thả tự do hoặc bán chăn thả, hiệu quả không cao.
2.2.1.2. Công nghiệp và xây dựng
Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp xây dựng của vùng Tây
Nguyên đạt tốc độ tăng trưởng cao. Năm 2012 tổng giá trị sản xuất ngành này
của vùng Tây Nguyên đạt 36,3 nghìn tỷ đồng. Các ngành điện, khí đốt, nước hiện chiếm tỷ trọng đáng kể trong ngành công nghiệp xây dựng với trên 27% trong năm 2012 [21]. Mức tăng nhanh chóng của ngành này chủ yếu là do việc xây dựng các nhà máy thủy điện quy mô lớn, vừa và nhỏ trong những năm qua. Xây dựng và ngành khai khoáng cũng đạt mức tăng trưởng cao trong giai đoạn
20072011 với mức tăng trưởng tương ứng là 14,44 % và 13,46 %(theo giá cố
định 1994). Đắk Nông và Gia Lai là hai tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng công
nghiệp và xây dựng cao nhất ở vùng Tây Nguyên.
Công nghiệp chế biến tiếp tục dẫn đầu nền kinh tế của khu vực Tây Nguyên. Ngành chế biến nông lâm sản và lương thực vẫn là ngành công nghiệp
chính của vùng. Ngành chế biến cà phê và chè không chỉ đáp ứng cho tiêu
dùng trong nước mà còn xuất khẩu ra thị trường thế giới và góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu của vùng. Ngành chế biến đồ uống và nước giải khát, gia vị… cũng đạt sản lượng lớn.
Hiện có 2 dự án khai thác và chế biến aluminumbauxite đang được triển khai tại vùng Tây Nguyên. Các nhà máy luyện nhôm đã được xây dựng ở Nhân Cơ huyện Đăk Lấp, tỉnh Đăk Nông và tại Tân Rai, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Công suất hàng năm của mỗi nhà máy tại thời điểm vận hành dự tính đạt tới từ 600,000 đến 650,000 tấn.
Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo của vùng Tây Nguyên là rất lớn và đáng kể nhất là tiềm năng thủy điện. Tổng công suất của 2 nhà máy thủy điện Đồng Nai và Sê San đạt khoảng 1.740 MW trong khi công suất của sông Sêrepok ước tính là 2.636 MW. Có ý kiến cho rằng tại Tây Nguyên hầu hết các nhà máy thủy điện qui mô lớn đã được xây dựng nhưng thực tế vẫn còn tiềm năng cho phát triển thủy điện vừa và nhỏ.
2.2.1.3. Thương mại dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng từ 17,4 nghìn tỷ đồng trong 2005 lên 95,6 nghìn tỷ đồng trong năm 2012 [21]. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng thương mại hiện đại như trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tiện ích, cửa hàng bán sỉ... đã đóng góp phần lớn cho bước tiến này.
Ngành du lịch, được xem như một trong những tiềm năng mạnh nhất của vùng Tây Nguyên. Số lượng khách du lịch đến thăm vùng Tây Nguyên tăng ổn định. Con số này đã tăng lên gấp đôi trong 4 năm gần đây từ 2007 2011.
vưñ g:
Tuy nhiên, nền kinh tếphat́ triển nhanh nhưng chưa đồng bô
vàthiếu bền
√. Phát triển các loại cây công nghiệp diễn ra ồ ạt không kiểm soát được vượt quá quy hoạch nhiều lần (như cà phê, cao su, sắn...); quy hoạch và xây dựng