hàng là có giới hạn dưới dạng lãi của các khoản tín dụng, khi có rủi ro, ngân hàng có thể mất một phần hay toàn bộ lãi và vốn gốc. Điều này còn phụ thuộc vào khả năng bồi hoàn của tài sản thế chấp và kết quả của việc thanh lý tài sản trong trường hợp người đi vay phá sản.
Lãi suất tỷ giá
chứng khoán 30–40%
Sự phá giá tín dụng
Giao dịch không được thực hiện giao dịch bất hợp pháp
Rủi ro thanh khoản ngắn hạn rủi ro hoàn trả nợ
Chấp nhận rủi ro như là hoạt động cốt lõi của ngân hàng
Tránh hoặc giảm thiểu rủi ro
CÁC LOẠI RỦI RO
Rủi ro thị
trường
Rủi ro tín
dụng
Rủi ro hoạt
động
Rủi ro thanh
khoản
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Hình 1.1: Các loại rủi ro của ngân hàng thương mại
– Rủi ro thanh khoản:
Các ngân hàng cần phải luôn luôn giữ một mức thanh khoản vừa đủ để đúng ở trạng thái mà trong các điều kiện kinh doanh bình thường có thể thực hiện được tất cả các nghĩa vụ, thực hiện đầy đủ các cam kết và đáp ứng các cam kết khác mà họ đưa ra. Khi ngân hàng không đảm bảo được nhu cầu thanh toán hay không dự liệu trước được nhu cầu có tính chất thời vụ, gây ra sự mất lòng tin vào ngân hàng dẫn đến việc rút tiền gửi một cách đồng loạt chính là rủi ro thanh khoản.
1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng của NHTM
Chất lượng là một khái niệm quen thuộc với con người và được đề cập rất nhiều trong các sách kinh tế ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Tuy nhiên, chất lượng cũng là một khái niệm gây nhiều tranh cãi. Tùy theo đối tượng sử dụng, từ
“chất lượng” có ý nghĩa khác nhau. Hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất nào về chất lượng.
Theo tiêu chuẩn ISO 9000 – 2000 đã đưa ra định nghĩa như sau: “Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của sản phẩm, hệ thống, quá trình đáp ứng yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”.
Theo Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO, “Chất lượng là tổng thể các đặc điểm và đặc tính của một sản phẩm hoặc dịch vụ có ảnh hưởng đến khả năng thoả mãn được những nhu cầu được nêu ra” (trích 1987/ ISO8402).
Là một tổ chức kinh tế trong nền kinh tế, các NHTM cũng rất quan tâm đến chất lượng hoạt động kinh doanh của mình, trong đó đặc biệt quan tâm đến CLTD. CLTD là một phạm trù kinh tế phản ánh các đặc tính của tín dụng, thể hiện mức độ đáp ứng yêu cầu của các khách hàng, phù hợp với sự phát triển Kinh tế – Xã hội và đáp ứng yêu cầu phát triển của ngân hàng trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
CLTD của NHTM là chỉ tiêu tổng hợp phản ảnh hoạt động tín dụng của NHTM nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu tín dụng và lợi ích của khách hàng, tăng thu nhập, đảm bảo sự tồn tại, phát triển bền vững của ngân hàng, trên cơ sở đó góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế.
CLTD của ngân hàng là phạm trù kinh tế đánh giá mức độ thỏa mãn nhu cầu về vốn tín dụng và mang lại lợi ích kinh tế cho khách hàng, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo lợi ích kinh tế, sự an toàn vốn đầu tư của ngân hàng.
Tương tự CLTD là mức độ đáp ứng tối đa nhu cầu vốn hợp lý, có hiệu quả cho doanh nghiệp nói riêng và khách hàng nói chung, đảm bảo hiệu quả kinh doanh và an toàn cho ngân hàng.
Trong bất kỳ nền kinh tế cạnh tranh nào một doanh nghiệp muốn đứng vững trong hoạt động kinh doanh thì phải biết cải thiện chất lượng hàng hóa để đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Chính vì vậy không có lý do gì mà các NHTM lại không quan tâm đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ của mình, trong
đó cung cấp tín dụng cho khách hàng là một trong những dịch vụ của ngân hàng. Qua khái niệm niệm trên chúng ta thấy khách hàng, ngân hàng và hiệu quả kinh tế
– xã hội đều là ba nhân tố được tính đến khi xem x t chất lượng hoạt động tín dụng.
Thứ nhất Chất lượng tín dụng t t g c độ ngân hàng:
Các chỉ tiêu như dư nợ, nợ xấu, lợi nhuận và thu nhập từ hoạt động tín dụng là một số chỉ tiêu phản ánh CLTD của ngân hàng. Việc cho vay của ngân hàng phải phù hợp với cơ cấu nguồn vốn huy động để đảm bảo hoạt động cho vay hiệu quả và an toàn trên nguyên tắc hoàn trả vốn, lãi vay đúng hạn trong hợp đồng tín dụng. Nếu hoạt động tín dụng tốt sẽ nâng cao được uy tín và vị thế ngân hàng trước các đối thủ cạnh tranh.
Thứ hai Chất lượng tín dụng t t g c độ hách hàng:
Khi tín dụng phát ra phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng, với lãi suất và kỳ hạn trả nợ hợp lý phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng; thủ tục đơn giản thuận tiện thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc an toàn và hiệu quả vốn.
Thứ ba, Chất lượng tín dụng t t g c độ inh tế – hội:
Tín dụng phục phụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Qua các nội dung chính được trình bày ở trên, có thể rút ra: CLTD là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng với sự phát triển của môi trường bên ngoài và thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
CLTD được xác định qua nhiều yếu tố: Thu hút được nhiều khách hàng tốt nhất, thủ tục đơn giản, thuận tiện, tỷ lệ nợ xấu thấp, chính sách Marketing phù hợp với từng giai đoạn phát triển của ngân hàng,...
Để có CLTD cao, cần phải có các biện pháp quản lý chất lượng đồng bộ, đây là cách quản lý mới: nó không chỉ nhằm đảm bảo CLTD mà còn nhằm thỏa mãn ngày càng đầy đủ yêu cầu của khách hàng. Để làm được điều đó, mỗi thành viên trong một tổ chức ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng.
Như vậy: CLTD được hiểu dưới nhiều góc độ xem xét, nhìn nhận trên nhiều phương diện khác nhau từ khách hàng, NHTM, xã hội:
– Khách hàng vay vốn: là sự đáp ứng tốt nhất về thủ tục, qui mô tín dụng, thời gian xét duyệt, giải ngân, thời hạn và lãi suất cho vay, phong cách phục vụ... hay là đáp ứng được cơ hội kinh doanh và sự hài lòng trong phục vụ, góp phần mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho khách hàng.
– Khách hàng gửi tiền: Thể hiện sự đáp ứng tốt về lãi suất huy động, về tính thanh khoản khi khách hàng rút tiền gửi đến hạn, trước hạn.
– Nền kinh tế: Thúc đẩy được sự tăng trưởng kinh tế cả về tốc độ, cơ cấu ngành trong nền kinh tế và đảm bảo góp phần kiềm chế lạm phát và hỗ trợ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế khác của Nhà Nước.
– Ngân hàng thương mại: trước hết đảm bảo được khả năng an toàn (đảm bảo thu hồi vốn vay đúng hạn đáp ứng tốt khả năng thanh khoản) và khả năng sinh lợi (đảm bảo thu hồi đủ lãi cho vay và đồng thời thu hút tốt hơn các dịch vụ khác cho ngân hàng tạo nguồn thu nhập cao, ổn định) là mục tiêu quan trọng và mang tính tổng quát nhất. Ta có thể hiểu thêm cụ thể hơn trong các chỉ tiêu phản ánh CLTD của NHTM.
Như vậy: với một số lĩnh vực cơ bản, ta có thể hiểu được CLTD theo quan điểm từng lĩnh vực. CLTD luôn được gắn với bối cảnh, điều kiện, tác dụng... của từng lĩnh vực, từng giai đoạn lịch sử cụ thể, đặc biệt là bối cảnh về kinh tế.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, luận án xem xét CLTD trên góc độ của các NHTM. Mục tiêu quản lý tín dụng của NHTM là tối đa hoá lợi nhuận của chủ ngân hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn. Như vậy, mục tiêu đảm bảo an toàn và tăng khả năng sinh lời là hai mục tiêu cơ bản của hoạt động tín dụng của NHTM. CLTD
chính là thước đo mức độ hoàn thành mục tiêu an toàn và sinh lời của hoạt động tín dụng.
Thông qua CLTD, chúng ta có thể đánh giá được mức độ thích nghi của ngân hàng với môi trường bên ngoài, thấy được tiềm lực cạnh tranh của ngân hàng để tồn tại và phát triển.
Như vậy, việc nâng cao CLTD là một yêu cầu đặt ra rất cấp thiết đối với một ngân hàng trong mọi thời kỳ phát triển.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM
Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt. Sản phẩm của ngân hàng là tiền tệ và các dịch vụ khác liên quan đến tiền tệ và thanh toán. Trong đó, sản phẩm truyền thống nhất và mang lại nhiều thu nhập nhất cho ngân hàng là “tín dụng”. Mặt khác, việc cung cấp tín dụng cho khách hàng là cơ sở để ngân hàng cung cấp các loại dịch vụ ngân hàng khác, mang lại thu nhập quan trọng như dịch vụ tiền gửi, dịch vụ thanh toán, quản lý vật có giá…Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro cũng như chứa đựng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Có thể nói RRTD hàm chứa hầu hết các loại rủi ro mà ngân hàng phải thường xuyên đối mặt như rủi ro lãi suất, rủi ro thông tin, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá [30]...
CLTD ngân hàng đối với doanh nghiệp nói riêng và khách hàng nói chung tốtcũng có nghĩa là hiệu quả kinh tế của người vay vốn – các chủ thể của nền kinh tế – được bảo đảm, chất lượng phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia được duy trì bền vững. Nói cách khác, đối với xã hội, CLTD doanh nghiệp nói riêng và khách hàng nói chung có ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu chung của nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng tại NHTM
1.2.3.1. Các chỉ tiêu định lượng
Nhận thức được vai trò của nâng cao CLTD trong hoạt động kinh doanh nên các NHTM luôn chú trọng nâng cao CLTD. Tuy nhiên, để tìm ra được giải pháp nâng cao CLTD, NHTM cần phải xác định được hiện nay CLTD của ngân
hàng mình đang ở mức độ nào. Điều này được thể hiện ở những chỉ tiêu phản ánh CLTD.
Có rất nhiều chỉ tiêu phản ánh CLTD của NHTM. Nhưng căn cứ khái niệm về CLTD được phân tích ở trên, khả năng sinh lời và đảm bảo an toàn tín dụng là mối quan tâm hàng đầu các NHTM trong việc nâng cao CLTD.
Có nhiều chỉ tiêu đánh giá CLTD doanh nghiệp nói riêng và khách hàng nói chung, có thể chia thành 3 nhóm chính như sau [26]:
+ Nhóm chất lượng hoạt động chung
+ Nhóm an toàn sử dụng vốn
+ Nhóm lợi nhuận.
-Nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của NHTM
– Tốc độ tăng trưởng tín dụng
Nhìn chung nếu ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng năm nay cao hơn năm trước, nguồn vốn ổn định, tỷ lệ nợ xấu thấp, tỷ lệ thu lãi cho vay cao thì chứng tỏ CLTD của ngân hàng đó tốt. Nhưng không hẳn ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao là có CLTD tốt, khi ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng một cách khác thường (cao hơn năm trước quá nhiều hay thấp quá) thì lúc này ta cần xét thêm nhiều phương diện nữa mới có thể kết luận được CLTD của ngân hàng đó tốt hay không. Nếu tốc độ tăng trưởng tín dụng quá cao mà nguồn vốn huy động được thấp thì ngân hàng đó đang mất đi sự cân bằng, khi nguồn vốn kinh doanh bị hạn chế mà ngân hàng cứ ồ ạt cho vay sẽ dẫn đến việc tăng lãi suất tiết kiệm để thu hút nguồn vốn nhằm đảm bảo thanh khoản. Việc này không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập ròng của ngân hàng mà còn ảnh hưởng chung đến nền kinh tế thị trường, gây cạnh tranh không lành mạnh, tăng tỷ lệ lạm phát của đất nước lên cao. Ở đây khẳng định CLTD của ngân hàng đó không tốt. Cũng ở trường hợp tốc độ tăng trưởng tín dụng cao bất thường, nguồn vốn ổn định nhưng đội ngũ lãnh đạo kém hiệu quả, cho vay ồ ạt mà không tìm hiểu tình hình khách hàng, mặc dù năm nay tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, đáp ứng đủ nhu cầu thu nhập nhưng tiềm ẩn rủi ro sau này sẽ rất cao. Tương tự ở các trường hợp tỷ lệ nợ xấu cao mà ngân
hàng vẫn cho vay ồ ạt. Trường hợp tốc độ tăng trưởng tín dụng quá thấp sẽ dẫn đến khó đáp ứng được việc tạo lãi về cho ngân hàng vì thu nhập của ngân hàng chủ yếu vẫn phụ thuộc về hoạt động tín dụng.
NHTM cần chú trọng trong việc quản lý tốc độ tăng trưởng tín dụng để đảm bảo CLTD luôn tốt, xây dựng một ngân hàng có thương hiệu.
Dư nợ cho vay năm nay | (1.1) | ||
= | –1 | x 100 | |
Dư nợ cho vay năm trước |
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 1
- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 2
- Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Nhân Tố Tác Động Đến Chất Lượng Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Bài Học Rút Ra Trong Công Tác Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Đối Với Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng đáp ứng vốn của ngân hàng và nhu cầu tiếp nhận vốn cho phát triển kinh tế doanh nghiệp nói riêng và khách hàng nói chung. Tốc độ tăng dư nợ phải phù hợp với tốc độ huy động nguồn vốn của NHTM và các quy định pháp luật hiện hành.
– Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn | ||
= | Tổng dư nợ | x 100 (1.2) |
Nợ quá hạn được hiểu là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn nhưng khách hàng đã không thanh toán đúng hạn, không có văn bản xin gia hạn với lý do hợp lý. Những khoản nợ trước khi chuyển nợ quá hạn thường được ngân hàng trao đổi, bàn bạc với khách hàng về nguồn trả nợ. Trường hợp, khách hàng có khả năng trả được nợ nhưng tạm thời chưa có nguồn thu trả nợ ngân hàng, ngân hàng luôn chấp thuận gia hạn nợ đối với khách hàng đến thời hạn khách hàng có nguồn thu. Trường hợp, khách hàng không còn có khả năng tạo nguồn thu trả nợ ngân hàng, tình hình sản xuất kinh doanh đã rất khó khăn, mất khả năng thanh toán, ngân hàng buộc phải chuyển nợ quá hạn. Do đó, nguy cơ ngân hàng mất vốn đối với những khoản nợ quá hạn này rất cao.
Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá CLTD của một ngân hàng, phản ánh mức độ cho vay của ngân hàng đó đối với khách hàng có khả năng hoàn trả thấp. Nguyên tắc hoàn trả là nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất trong hoạt động tín dụng của NHTM. Nếu tỷ lệ này quá cao, NHTM đang cho vay
các khách hàng có khả năng hoàn trả thấp tương đối lớn, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc cho vay này, do đó, ngân hàng có thể xảy ra rủi ro mất vốn.
– Chỉ tiêu phản ánh CLTD dựa trên năng lực tài chính của NHTM
= | Dư nợ cho vay | (1.3) |
Tổng vốn huy động |
– Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu
Nợ xấu | (1.4) | |
= | Tổng dư nợ | x 100 |
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu là một trong những chỉ tiêu quan trọng nó phản ảnh những RRTD mà ngân hàng phải đối mặt. Nếu chỉ tiêu này cao, ngân hàng sẽ bị đánh giá là có CLTD thấp và ngược lại. Tuy nhiên, nợ xấu là một vấn đề khó tránh khỏi trong hoạt động tín dụng ngân hàng, do đó điều quan trọng là NHTM cần duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp nhất để có thể chấp nhận được. Theo ngân hàng Thế giới, tỷ lệ này ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được, mức từ 1% – 3% càng tốt.
-Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ an toàn về hoạt động tín dụng của NHTM
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ–NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước [16], tại quyết định này các khoản nợ của ngân hàng được phân loại thành 5 nhóm và nợ xấu là các khoản nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5.
Nợ xấu là những khoản cho vay được đánh giá là có khả năng tổn thất một phần hoặc toàn bộ gốc và lãi. Tỷ lệ nợ xấu phản ánh tỷ lệ phần % của các khoản nợ xấu trong tổng dư nợ cho vay. Cũng như tỷ lệ nợ quá hạn, khi một NHTM có tỷ lệ nợ xấu cao, thì chứng tỏ các khoản nợ xấu đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay và ngân hàng đó và như vậy ngân hàng sẽ đứng trước nguy cơ bị tổn thất một phần hoặc toàn bộ gốc và lãi. Do đó, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng càng nhỏ thì càng tốt.
– Chỉ tiêu tỷ lệ phân bổ dự phòng RRTD hàng năm
= | Dự phòng RRTD hàng năm | (1.5) |
Tổng dư nợ | x 100 |
Tỷ lệ này phản ánh khả năng bù đắp rủi ro từ hoạt động tín dụng. Đây là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng RRTD gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung.
Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trong trường hợp khó khăn về tài chính của ngân hàng khi chất lượng các khoản nợ suy giảm.
Dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với từng khoản nợ.
Phù hợp với thông lệ quốc tế, dự phòng cụ thể được trích lập trên cơ sở phân loại nợ với tỷ lệ được quy định tại Quyết định 493/2005/QĐ–NHNN của NHNN [16]. Quyết định này được sửa đổi bổ sung bằng Thông tư 02/2013/TT– NHNN, ngày 21/01/2013; Thông tư 09/2014/TT–NHNN, ngày 18/03/2014 có hiệu lực thi hành từ 20/03/2014.
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với năm nhóm nợ quy định Khoản 1 Điều 6 Quyết định 493/2005/QĐ–NHNN cũng như tại Khoản 2, Điều 12 Thông tư 09, với (a) Nhóm 1: 0%, (b) Nhóm 2: 5%, (c) Nhóm 3: 20%, (d) Nhóm 4: 50%, (đ)
Nhóm 5: 100% [16].
Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, tổ chức tín dụng trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.”
Như vậy, dự phòng rủi ro là lớp đệm bù đắp những tổn thất xảy ra đối với các NHTM khi khoản nợ xảy ra rủi ro. Chỉ tiêu tỷ lệ dự phòng rủi ro này phản ánh khả năng bù đắp các khoản tổn thất của hoạt động tín dụng.
Ngoài những chỉ tiêu nêu trên còn có một số tiêu chuẩn khác như phân loại lại nợ vào nhóm thấp hơn khi đáp ứng được một số điều kiện thanh toán nợ hay
phân nhóm nợ cao hơn khi có nhóm nợ được phân loại cao hơn với một số khoản nợ khác đối với cùng một khách hàng. Bên cạnh đó các NHTM có thể chủ động xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để chủ động phân loại nợ theo khả năng đánh giá của NHTM dựa trên khả năng trả nợ của khách hàng. Trên cơ sở khái niệm trên, tương ứng với các nhóm nợ ta có hệ thống các chỉ tiêu dư nợ theo nhóm nợ như sau:
(1) Tỷ trọng dư nợ nhóm (1) /Tổng dư nợ: Phản ánh mức độ nợ không đạt tiêu chuẩn của NHTM
(2) Tỷ trọng dư nợ nhóm (2) / Tổng dư nợ: Phản ánh mức độ nợ cần chú ý.
(3) Tỷ trọng dư nợ xấu / Tổng dư nợ: Phản ánh mức độ nợ dưới tiêu chuẩn
– Cơ cấu dư nợ theo thời hạn và theo nguồn vốn
Phản ánh quan hệ giữa sử dụng vốn và huy động vốn, xem x t cơ bản tính thanh khoản trong hoạt động của NHTM.
(4) Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
(5) Tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn sử dụng cho vay trung – dài hạn.
– Cơ cấu dư nợ theo tài sản bảo đảm
Cho thấy mức độ tài sản đảm bảo để dự phòng khả năng rủi ro xấu nhất.
(6) Tỷ trọng dư nợ có bảo đảm / Tổng dư nợ: Cho thấy một đồng dư nợ có bao nhiêu đồng có TSĐB. Tỷ trọng này càng lớn cho thấy việc cho vay của NHTM dư nợ được đảm bảo an toàn bằng tài sản hay có nguồn thu nợ dự phòng nhiều hơn.
– Nhóm chỉ tiêu theo ngành kinh tế
(7) Cơ cấu dư nợ theo ngành kinh tế: Phản ánh mức độ đa dạng hoá nợ cho vay nhằm phân tán rủi ro của hoạt động tín dụng của NHTM theo từng ngành kinh tế.
Tỷ trọng dư nợ theo từng ngành kinh tế / Tổng dư nợ
– Cơ cấu thu nhập: cơ cấu thu nhập phản ánh được tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng trong tổng thu nhập của NHTM. Nếu cùng điều kiện dư nợ, thu nhập từ hoạt động tín dụng làm gia tăng thu nhập từ hoạt động phi tín dụng càng lớn thì RRTD của NHTM càng nhỏ hơn.
Thu nhập từ hoạt động tín dụng | ||
= | Tổng thu nhập | (1.6) |
– Thu hồi nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro
Nợ đã được xử lý từ quỹ DPRR là nợ được hạch toán ngoại bảng, các NHTM vẫn tiếp tục theo dõi và thu hồi. Khi thu hồi được nợ này thì sẽ hạch toán vào thu nhập bất thường của NHTM trong kỳ. Việc thu hồi được nợ này có ý nghĩa hết sức quan trọng, kết quả sẽ khẳng định được là khoản nợ có rủi ro hay hết rủi ro và là thu nhập trực tiếp của NHTM để thu lại khoản đã chi của mình mà đã trích DPRR trước đó làm quỹ DPRR đã được sử dụng để xử lý khoản nợ này theo qui định. Tình hình thu hồi nợ đã được xử lý bằng quỹ DPRR được đánh giá về mặt giá trị lẫn tỷ trọng được thu hồi trong từng thời kỳ.
-Nhóm chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận ngân hàng chính là chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí được tính toán trong một khoảng thời gian nhất định như: 1 năm, 06 tháng, hoặc mỗi quý.
Lợi nhuận ngân hàng là kết quả tài chính hoạt động kinh doanh của ngân hàng, là mục tiêu kinh tế cao nhất và là điều kiện để tồn tại, phát triển của bản thân mỗi ngân hàng.
Lợi nhuận ngân hàng phản ánh kết quả hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư, thu phí qua các DVNH và các khoản thu nhập khác. Trong đó, thu lãi tiền vay thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu từ các hoạt động kinh doanh ngân hàng.
– Chỉ tiêu tỷ trọng thu nhập t hoạt động tín dụng
Thu nhập lãi từ hoạt động cho vay | |||
= | Tổng thu nhập của ngân hàng | x 100 | (1.7) |
Chỉ tiêu tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng giúp nhà quản lý đánh giá được khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng qua đó thấy được tầm quan trọng của nó để có biện pháp nâng cao chất lượng của hoạt động cho vay. Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng càng cao thì càng chứng tỏ CLTD càng cao và ngược lại.
– Chỉ tiêu tỷ lệ thu nhập thuần từ hoạt động tín dụng
= | Thu nhập lãi từ hoạt động cho vay | x 100 | (1.8) |
Tổng dư nợ cho vay |
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản tín dụng mà ngân hàng cho vay. Chỉ tiêu này phản ánh một đồng dư nợ thì tạo được bao nhiêu đồng thu nhập thuần từ hoạt động cho vay. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt điều đó cho thấy ngân hàng đầu tư có hiệu quả, đảm bảo CLTD tốt.
– Chỉ tiêu thu lãi t cho vay
Đây là một chỉ tiêu mang tính thời kỳ, phản ánh kết quả thu được sau một thời kỳ nhất định từ thực trạng CLTD. Ngân hàng với CLTD tốt, khách hàng trả nợ gốc và lãi đầy đủ, phát triển tín dụng có kiểm soát, tổng lãi cho vay mà ngân hàng thu được sẽ cao.
Ngoài thu lãi từ hoạt động cho vay, ngân hàng còn có các khoản thu lãi từ hoạt động tiền gửi, từ hoạt động đầu tư, kinh doanh chứng khoán, …Tỷ lệ thu lãi từ cho vay/tổng thu từ lãi của NHTM phản ánh khả năng đóng góp của hoạt động cho vay vào thu nhập chung của ngân hàng. CLTD, ngoài việc đảm bảo an toàn vốn, hoạt động tín dụng tạo nguồn thu từ lãi cho vay cao cho NHTM, và hoạt động tín dụng trở thành hoạt động sinh lời chính của NHTM. Với CLTD thấp, các khoản vay thường xuyên phải xin miễn giảm lãi, thu lãi cho vay giảm, tín dụng không phải là hoạt động sinh lời chính.
+ Tỷ lệ thu nhập ròng t lãi cho vay
Thu lãi từ hoạt động cho vay | |||
Tỷ lệ thu nhập ròng từ lãi cho vay (%) | = | x 100 | (1.9) |
Chi phí từ hoạt động cho vay |
Trong đó, chi phí từ hoạt động cho vay bao gồm chi trả lãi và các khoản chi phí khác để thực hiện hoạt động cho vay như chi trả lương CBTD, cán bộ thẩm định và quản lý tín dụng, chi phí giao dịch…
Chỉ tiêu này cho ta biết một đồng chi phí bỏ ra thu được bao nhiều đồng lãi từ hoạt động cho vay. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ hoạt động tín dụng càng