MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tín dụng là hoạt động chủ yếu và là mối quan tâm hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung và NHNo&PTNT Việt Nam nói riêng. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay cũng như trong thời gian tới, nguồn vốn tín dụng NHTM rất quan trọng, đóng vai trò chủ lực của các doanh nghiệp, hộ gia đình và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, việc nâng cao CLTD, hiệu quả quản lý nhằm giảm thiểu RRTD có ý nghĩa quyết định đến hoạt động kinh doanh của một ngân hàng, đến an toàn của hệ thống NHTM và thậm chí đối với cả nền kinh tế.
Trong thời gian qua, NHNN Việt Nam và các TCTD đều hết sức quan tâm đến chất lượng tín dụng, điều này được thể hiện rõ qua việc hoàn thiện các quy định pháp lý về phòng ngừa và xử lý RRTD, thường xuyên ban hành các văn bản chỉ đạo nghiệp vụ về nâng cao CLTD, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN, chấn chỉnh hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ của các tổ chức tín dụng. Nhờ đó mà tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trong chừng mực nhất định đã được kiềm chế sự gia tăng. Tuy nhiên hoạt động tín dụng vẫn đang đối mặt với nhiều rủi ro, tỷ lệ nợ xấu cao và vẫn còn tiềm ẩn nhiều khoản nợ xấu chưa được hạch toán và báo cáo đúng thực chất. Việc tiếp tục nâng cao CLTD là định hướng có tính cấp bách đối với các NHTM Việt Nam hiện nay.
Trong tình trạng chung đó, việc nân cao CLTD của NHNo&PTNT Việt Nam tuy đã được tăng cường bằng nhiều biện pháp khác nhau như: rà soát các quy định nội bộ, chấn chỉnh công tác cán bộ, cơ cấu lại mạng lưới ở đô thị, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả kiểm tra, kiểm soát nội bộ, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tập trung xử lý nợ xấu, bán nợ xấu cho VAMC,...Tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu vẫn là vấn đề đáng lo ngại (đến hết năm 2014) lên tới trên 4,55%. Mặc dù vậy tỷ lệ này vẫn chưa phản ảnh đúng thực trạng CLTD, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao,
chưa chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng… Bên cạnh đó đối tượng khách hàng chủ yếu của NHNo&PTNT Việt Nam là các hộ sản xuất, doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nên chịu áp lực bởi các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh, thị trường tiêu thụ,…qua đó tác động trực tiếp đến CLTD ngân hàng.
Những tiềm ẩn RRTD không phải là nhỏ và đứng trước yêu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cần phải có những giải pháp phù hợp hơn nữa để nâng cao CLTD và quản lý CLTD trong thời gian tới. Vì lý do đó, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ của mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 1
- Sự Cần Thiết Phải Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Nhtm
- Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Nhân Tố Tác Động Đến Chất Lượng Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến “Nâng cao chất lượng tín dụng”. Song, theo sự hiểu biết của tác giả, hiện nay có một số công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài tiêu biểu có liên quan đến đề tài như sau:
– Nguyễn Thị Thu Đông (2012), Nâng cao chất lượng tín dụng tại NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam trong quá trình hội nhập [9]. Tác giả đã tập trung nghiên cứu một cách toàn diện về CLTD của NHTM, từ đó phân tích cụ thể cho NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam. Song, luận án chỉ dừng lại ở việc phân tích thực trạng dựa trên số liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo của NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
– Nguyễn Hữu Đương (2002), Giải pháp phát triển hệ thống thông tin tín dụng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay [8]. Nghiên cứu đưa ra phương pháp xếp loại tín dụng doanh nghiệp để áp dụng trong thực tiễn tại trung tâm thông tin tín dụng. Đề tài đã đánh giá mặt tích cực của việc phát triển hệ thống thông tin tín dụng qua đó đưa ra một phương pháp đánh giá, xếp loại doanh nghiệp tương đối chi tiết, đánh giá tương đối kỹ về mặt tài chính doanh nghiệp,
đồng thời đưa ra một thang tính điểm hợp lý và xếp doanh nghiệp thành 9 loại. Đây là lần đầu tiên trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đưa ra việc cho điểm và xếp loại doanh nghiệp. Nghiên cứu cũng chỉ ra một số mặt hạn chế trong việc lựa chọn các chỉ tiêu để phân tích cũng như phương pháp phân tích thiên về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Việc đánh giá xếp loại doanh nghiệp chưa thật khách quan, không đánh giá được thực chất trên tất cả mọi mặt.
– Nguyễn Hữu Huấn (2005), Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam [10]. Đề tài đã đi sâu nghiên cứu và làm rõ các quan điểm về chất lượng của hoạt động kinh doanh ngân hàng trên ba phương diện là khách hàng– ngân hàng thương mại và nền kinh tế xã hội trên cơ sở phân tích về thực trạng hoạt động từ đó đề xuât các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam [3, 5, 24].
– Wang Junbo; Wu Chunchi (2015), Thanh khoản, chất lượng tín dụng và các mối quan hệ giữa biến động giá và hoạt động giao dịch: Bằng chứng từ các thị trường trái phiếu doanh nghiệp [32]. Nghiên cứu về vai trò của tính thanh khoản và rủi ro tín dụng trong việc xác định mối quan hệ giữa biến động giá của một trái phiếu và tần số giao dịch và quy mô thương mại dựa trên một tập dữ liệu giao dịch lớn từ tháng 6 năm 2012 đến tháng 10 năm 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy một mối quan hệ tích cực giữa biến động giá và tần số giao dịch và một mối quan hệ tiêu cực giữa biến động giá và quy mô doanh nghiệp, Nghiên cứu cũng chỉ ra khi Ngân hàng có tính thanh khoản kém thì sẽ tỷ lệ thuận với rủi ro cao. Hơn nữa, cả hai chỉ tiêu thanh khoản và rủi ro tín dụng trở nên quan trọng hơn trong thời điểm biến động của thị trường trái phiếu của doanh nghiệp.
– Zhu Xiaoqian; Fei Wang; Haiyan Wang; Changzhi Liang; Run Tang; Xiaolei Sun; Jianping Li (2014), Phương pháp TOPSIS để đánh giá chất lượng tín dụng: Một trường hợp thị trường máy điều hòa không khí ở Trung Quốc [31]. Chất lượng tín dụng là một khái niệm mới được sử dụng ở Trung Quốc và theo
như sự hiểu biết của nhóm nghiên cứu thì chưa có một hệ thống chỉ tiêu chất lượng tín dụng được chấp nhận rộng rãi và không có phương pháp định lượng được sử dụng trong đánh giá chất lượng tín dụng cho đến nay. Để có những nghiên cứu đánh giá chất lượng tín dụng cho các doanh nghiệp sản xuất máy điều hòa không khí tại thị trường Trung Quốc và sử dụng TOPSIS (kỹ thuật cho sở thích tương ứng với giải pháp lý tưởng) phương pháp để đánh giá chất lượng tín dụng của doanh nghiệp.
Dựa trên dữ liệu của 8 doanh nghiệp sản xuất máy điều hòa không khí, trong đó có 6 doanh nghiệp Trung Quốc và 2 doanh nghiệp Nhật Bản, thí nghiệm với hệ thống chỉ tiêu khác nhau được sử dụng để xác định hệ thống chỉ tiêu ban đầu được thành lập để đánh giá chất lượng tín dụng của 8 doanh nghiệp. Kết quả cho thấy hệ thống chỉ tiêu chất lượng tín dụng được đề xuất là đáng tin cậy và TOPSIS là thích hợp cho việc đánh giá chất lượng tín dụng.
Trên cơ sở tiếp cận và thừa kế các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước và nước ngoài trước đây, tác giả nhận thấy ở Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào đề cập một cách có hệ thống lý luận về CLTD và hệ thống một số nhóm chỉ tiêu đánh giá CLTD cũng như việc ứng dụng mô hình định lượng trong phân tích các nhân tố tác động CLTD của NHNNo&PTNT Việt Nam đang thiếu hẳn tại Việt Nam và đây cũng là hướng nghiên cứu tiếp theo của tác giả.
3. Mục tiêu nghiên cứu
– Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng, chất lượng tín dụng, các nhân tố tác động tới chất lượng tín dụng.
– Đánh giá thực trạng CLTD tại NHNo&PTNT Việt Nam;
– Lựa chọn mô hình để phân tích các nhân tố tác động đến CLTD;
– Đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao CLTD tại NHNo&PTNT Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
– Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam; Hoạt động tín dụng được nghiên cứu trong luận án đó là hoạt động cho vay; Chất lượng tín dụng mà luận án nghiên cứu đó là chất lượng cho vay của NHTM.
– Phạm vi không gian nghiên cứu: NHNo&PTNT Việt Nam trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng.
– Phạm vi thời gian nghiên cứu:
Dữ liệu thứ cấp: Thu thập trong giai đoạn 2010 – 2014
Dữ liệu sơ cấp: Thu thập thông tin đánh giá của cán bộ tín dụng về các nhân tố tác động đến CLTD của NHNo&PTNT Việt Nam trong năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp thu thập dữ liệu
Để thu thập thông tin phục vụ cho nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng cả dữ liệu thứ cấp và sơ cấp.
Dữ liệu thứ cấp: Việc xác định các tiêu thức dùng để nghiên cứu về nâng cao CLTD tại NHNo&PTNT Việt Nam dựa trên cơ sở tham khảo các tài liệu, sách, tạp chí, bài báo, trang web, số liệu cơ quan thống kê, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, các báo cáo tài chính của NHNo&PTNT Việt Nam giai đoạn 2010 –2014.
Dữ liệu sơ cấp: Để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới CLTD của ngân hàng như thế nào? Tác giả đã phỏng vấn 20 chuyên gia thuộc NHNo&PTNT trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, sau đó tổng hợp các ý kiến chuyên gia về đánh giá nhân tố tác động đến CLTD của ngân hàng. Từ đó hình thành bảng hỏi và tiến hành khảo sát thử với số lượng mẫu là 94 và tác giả kiểm định độ tin cậy của dữ liệu. Sau khi có kết quả kiểm định độ tin cậy, tác giả tiến hành thu thập ý kiến đánh giá của 458 cán bộ tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam trên địa bàn cả
nước, tuy nhiên tập trung nghiên cứu tại các thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh (230 cán bộ tín dụng); Hà Nội (178 cán bộ tín dụng); Đà Nẵng (50 cán bộ tín dụng), nơi tập trung số lượng dân số đông đúc và nhiều doanh nghiệp, nên có nhu cầu vay vốn ngân hàng lớn. Nội dung khảo sát nhằm biết được mức điểm đánh giá của các cán bộ tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam về thực trạng hiện nay của từng nhân tố tác động đến CLTD của NHNo&PTNT Việt Nam bao gồm: Chính sách tín dụng; Quy trình, quy chế tín dụng; Công tác tổ chức; Chất lượng nhân sự; Năng lực quản trị; Trang thiết bị công nghệ; Thông tin tín dụng; Kiểm tra và kiểm soát nội bộ; Huy động vốn. Đồng thời qua kết quả khảo sát sẽ có thể tiến hành phân tích số liệu bằng phần mềm phân tích thống kê SPSS16 để đưa ra kết luận về thực trạng, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến CLTD của NHNo&PTNT Việt Nam. Từ 500 phiếu phát ra, số phiếu thu về hợp lệ là 458 phiếu, kết quả khảo sát được tổng hợp bằng phần mềm Excel trước khi đưa vào phần mềm SPSS16 để phân tích.
Để tiến hành khảo sát cán bộ tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam, tác giả tiến hành xây dựng thang đo, sử dụng thang đo Likert: Là một dạng đặc biệt của thang đo thứ bậc vì nó cho biết được khoảng cách giữa các thứ bậc. Thông thường thang đo khoảng có dạng là một dãy các chữ số liên tục và đều đặn từ 1 đến 5, từ 1 đến 7 hay từ 1 đến 10. Dãy số này có 2 cực ở 2 đầu thể hiện 2 trạng thái đối nghịch nhau. Ví dụ: (1) hoàn toàn không đồng ý, (2) không đồng ý, (3) bình thường, (4) đồng ý, (5) hoàn toàn đồng ý. Thuộc nhóm thang đo theo tỷ lệ phân cấp, được biểu hiện bằng các con số để phân cấp theo mức độ tăng dần hay giảm dần từ “không đồng ý” đến “đồng ý” hay ngược lại. Từ đây sẽ đánh giá được mức độ đồng ý của cán bộ về các câu hỏi mà tác giả đã đưa ra khảo sát.
-Phương pháp phân tích, tổng hợp dữ liệu
– Phương pháp phân tích dữ liệu thứ cấp
Trong quá trình nghiên cứu, các thông tin báo cáo về tình hình chất lượng tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam được tác giả thu thập dưới dạng các báo
cáo tổng hợp được NHNo&PTNT Việt Nam, NHTM công bố. Trong đó có các nội dung về thu nhập, chi phí, lợi nhuận, tỷ lệ nợ xấu, mức dự phòng rủi ro…Các số liệu trên được tác giả chọn lọc, xử lý và đưa vào nghiên cứu này dưới dạng các bảng biểu, hình. Nội dung phân tích các số liệu này bao gồm phân tích so sánh giá trị giữa các giai đoạn, ở đây là theo từng năm.
– Phương pháp phân tích dữ liệu sơ cấp
Phương pháp thống kê mô tả và thống kê suy luận; Phương pháp hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha; Phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis); Phân tích phương sai ANOVA; Phương pháp phân tích hồi quy.
6. Những đóng góp của luận án
-Về mặt học thuật, lý luận:
Thứ nhất: Trên cơ sở lý luận về tín dụng của NHTM, tác giả đưa ra quan điểm CLTD dựa trên quan điểm của (i) Khách hàng vay vốn; (ii) Khách hàng gửi tiền; (iii) Nền kinh tế; (iv) Ngân hàng thương mại.
Thứ hai: Tác giả đưa ra chỉ tiêu đánh giá CLTD của NHTM đó là (i) Chỉ tiêu định lượng bao gồm: Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô cung cấp vốn tín dụng của NHTM; Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ an toàn về hoạt động tín dụng của NHTM; Nhóm chỉ tiêu lợi nhuận của NHTM. (ii) Chỉ tiêu định tính bao gồm: Quy trình cấp tín dụng của ngân hàng; Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ dùng để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp (khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình hay mức độ tín nhiệm tín dụng; Chỉ tiêu phản ánh năng lực phát triển sản phẩm tín dụng và chính sách chăm sóc khách hàng.
Thứ ba: Luận án cũng đã đưa ra cơ sở lý luận về nâng cao CLTD theo nguyên tắc Basel [2] và nội dung nâng cao CLTD của các NHTM hiện nay.
Thứ tư: Luận án cũng tập trung làm rõ các nhân tố tác động đến CLTD của NHTM bao gồm: (i) Nhân tố khách quan (Nhóm nhân tố môi trường vĩ mô;
Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng; (ii) Nhân tố chủ quan (Nhóm nhân tố cơ chế chính sách– quy trình, quy chế tín dụng của NHTM; Nhóm nhân tố về công tác tổ chức, chất lượng nhân sự và năng lực quản trị điều hành; Nhóm nhân tố về hệ thống công cụ bảo đảm CLTD.
-Về mặt thực tiễn:
Từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án, đã có những phát hiện, đề xuất mới rút ra được như sau:
Thứ nhất: các đối tượng có liên quan đến ngân hàng sẽ hiểu rõ hơn các nhân tố ảnh hưởng đến CLTD của ngân hàng, từ đó có cái nhìn tổng thể hơn về ngân hàng cũng như những đánh giá, nhận xét về CLTD của ngân hàng.
Thứ hai: Các nhà quản trị ngân hàng hiểu rõ hơn về các nhân tố tác động đến CLTD của ngân hàng, từ đó đưa ra những chiến lược và chính sách phù hợp nhằm nâng cao CLTD của ngân hàng.
Thứ ba: Qua phân tích, đánh giá số liệu sơ cấp kết quả khảo sát từ cán bộ tín dụng ngân hàng về nhân tố ảnh hưởng đến CLTD của ngân hàng, mức độ tác động được thể hiện qua hàm hồi quy như sau:
Chất lượng tín dụng = 0.265* Quy trình, quy chế + 0.257* Chính sách tín dụng + 0.253* Thông tin tín dụng + 0.230* Chất lượng nhân sự + 0.154* Năng lực quản trị + 0.140* Huy động vốn + 0.133* Kiểm tra, kiểm soát nội bộ + 0.119* Trang thiết bị công nghệ + 0.069* Công tác tổ chức.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các bảng biểu, tài liệu tham khảo, danh mục phụ lục thì kết cấu của luận án gồm 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương
mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm tín dụng của NHTM
Theo quan điểm của Các Mác “Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng, sau một thời gian nhất định sẽ thu hồi lại một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu” [1].
Kinh tế học hiện đại cho rằng “Tín dụng là mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên chuyển giao tiền hoặc tài sản vô điều kiện theo thời hạn đã thoả thuận” [15].
Theo Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 “cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”[23].
Như vậy, tín dụng là một phạm trù kinh tế hàng hoá, là hình thức vận động của vốn cho vay, phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và chủ thể sử dụng đối với nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, là một sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện vật theo những điều kiện cam kết mà hai bên đã thoả thuận, trên nguyên tắc có hoàn trả cả vốn và lãi.
Có thể nói bản chất của tín dụng biểu hiện mối quan hệ vay mượn và hoàn trả, thể hiện qua các nội dung:
– Người cho vay chuyển cho người vay một lượng giá trị nhất định.
– Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người
cho vay phần vốn gốc cộng với khoản phí cơ hội mà người cho vay mất đi khi bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt hơn.
Từ bản chất tín dụng cho thấy, tín dụng ngân hàng phản ánh mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng và khách hàng trong đó ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới nhiều hình thức và dùng số tiền huy động được đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn và phân bổ lại nguồn lực đầu tư của xã hội vào các lĩnh vực của nền kinh tế một cách có hiệu quả.
1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
RRTD phát sinh khi người vay hoặc bên đối tác có nguy cơ không thể thực hiện được trách nhiệm trong giao dịch tín dụng, ngân hàng có nguy cơ không nhận được phần gốc và/hoặc lãi của các khoản vay.
Hay “RRTD là sự thay đổi của thu nhập thuần và giá trị của vốn xuất phát từ việc vốn vay không được thanh toán hoặc thanh toán trễ hạn” [6].
Theo Uỷ ban Basel: “RRTD là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã thoả thuận”. Thực chất rủi ro thất thoát đối với một ngân hàng theo uỷ ban Basel đó là: "Sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp đồng” mà sự vỡ nợ được xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả gốc và/ hoặc lãi [2, 13].
1.1.2. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hoạt động kinh doanh của NHTM
– Rủi ro tín dụng làm suy giảm uy tín của ngân hàng:
Rủi ro tín dụng ở mức độ cao phản ánh năng lực hoạt động kinh doanh của ngân hàng không tốt, làm suy giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường huy động vốn do suy giảm lòng tin của công chúng gửi tiền, suy giảm tín nhiệm trên thị
trường tiền quốc tế và khu vực gây khó khăn trong việc quan hệ vay vốn nước ngoài, thiết lập quan hệ trong hoạt động kinh doanh khác...
– Rủi ro tín dụng làm cho khả năng thanh toán của ngân hàng giảm sút:
Các khoản tín dụng có rủi ro khiến cho việc hoàn trả gặp khó khăn, trong lúc đó các khoản tiền gửi, tiết kiệm của dân cư vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn. Nguồn vốn huy động không được dồi dào do mất uy tín, cũng vì thế người rút tiền lại càng tăng lên, kết quả là ngân hàng gặp khó khăn trong khâu thanh toán.
– Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng:
Khi RRTD xảy ra, ngân hàng không thu hồi được nợ vay như dự kiến ban đầu, làm chậm tốc độ quay vòng vốn, gây ra những thiệt hại về mặt tài chính, thêm vào đó là quá trình mở rộng hoạt động kinh doanh gặp khó khăn, bế tắc, thu nhập giảm kết quả là làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
– Rủi ro tín dụng làm tăng nguy cơ phá sản ngân hàng:
Rủi ro tín dụng kéo dài gây thất thoát lượng vốn quá lớn dẫn đến các NHTM có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán và có thể dẫn đến phá sản. Việc phá sản một ngân hàng có thể dẫn đến phản ứng dây chuyền có tính hệ thống gây nên phá sản các ngân hàng khác nếu ngân hàng phá sản ban đầu có vị thế quan trọng trong hệ thống các TCTD và làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế, chính trị quốc gia.
– Rủi ro thị trường:
Rủi ro thị trường là rủi ro đối với lợi nhuận và vốn của ngân hàng do những thay đổi trong mức lãi suất, chứng khoán, tỷ giá ngoại tệ và cổ phiếu cũng như sự biến động trong các giá cả đó. Rủi ro thị trường còn được gọi là rủi ro “giá cả”.
– Rủi ro tín dụng:
Là rủi ro phát sinh trong trường hợp ngân hàng cho vay mà không có khả năng thu hồi được đầy đủ gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn [7]. Nếu không có rủi ro thì nguồn thu nhập tín dụng của ngân