Đánh giá hiệu quả giải pháp phục hồi rừng thứ sinh nghèo tại xã Yên Lương, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ - 10


phẩm hàng hoá của rừng ngoài các giá trị về phòng hộ và môi sinh, v.v… Trong các tồn tại đó, bức xúc nhất là làm sao thu hút được đông đảo người

dân thực hiện khoanh nuôi phục hồi rừng, không thể chờ đợi sự đầu tư của Nhà nước. Hơn nữa ngay cả sự đầu tư ít ỏi đó Nhà nước cũng không thể có đủ để đầu tư mãi cho phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh với quy mô hàng triệu ha.

Ngoài những vấn đề cần giải quyết về mặt kỹ thuật, hiện nay vẫn tồn tại nhiều bất cập như một rào cản trong việc đưa kỹ thuật vào kinh doanh rừng bền vững. Đó là những rào cản về cả phương diện xã hội lẫn kinh tế, trong đó có nhận thức chưa đầy đủ của xã hội về giá trị của rừng, chính sách hưởng lợi tài nguyên rừng, chính sách đầu tư xây dựng vốn rừng, chính sách tín dụng ngân hàng, chính sách khuyến nông, khuyến lâm, chính sách thuế sử dụng tài nguyên rừng và môi trường, chính sách cuốn hút người dân và cộng đồng tham gia quản lý bảo vệ rừng v.v... gây khó khăn cho hoạt động phục hồi và phát triển bền vững rừng tự nhiên. Những vấn đề nêu trên cho thấy, cần có giải pháp tổng thể tác động hợp lý cho từng đối tượng, mới có hy vọng phục hồi và phát triển bền vững rừng tự nhiên.

- Trong kết cấu sử dụng đất đai khu vực vẫn còn nhiều diện tích đất không có rừng (gần 100 ha). Như vậy chứng tỏ không gian diện tích đất rừng có thể còn lợi dụng được là tương đối lớn. Do đó có thể nói hiện nay ở vùng này vẫn chưa lợi dụng hết quỹ đất đai. Điều này thật khó chấp nhận trong hoàn cảnh dân trong vùng đang thiếu việc làm.

- Thiếu hẳn các loại rừng cần thiết khác, như rừng kinh tế, rừng NLKH, rừng cây thuốc, rừng cây ăn quả, rừng cung cấp gỗ, rừng cảnh quan, rừng bảo vệ đường xá…, đồng thời thiếu hẳn diện tích đất cho phát triển chăn nuôi v.v... Như vậy ngoài chức năng phòng hộ ra thì rừng ở đây không phát huy được hết chức năng kinh tế và chức năng xã hội. Chính điều này sẽ dẫn đến sự khó khăn trong công tác QLR và không đảm bảo sự phát triển bền vững trong khu vực.


- Trên diện tích đất có rừng ở khu vực, hầu hết là rừng chưa đảm bảo được tiêu chuẩn về chức năng phòng hộ, mà toàn bộ là loại rừng nghèo, tán rừng đã bị vỡ, nghèo về loài cây và trữ lượng, cây phân bố không đều, mật độ thấp, chủ yếu là những cây ít có giá trị kinh tế và phòng hộ.

- Đối với rừng trồng phòng hộ thì cây trồng là cây nhập nội (Keo Tai tượng) còn nhiều, tính ổn định bền vững thấp.

Vì vậy muốn nâng cao hiệu quả PHRPH trong việc nuôi dưỡng nguồn nước, bảo vệ đất và nước, chống xói mòn rửa trôi và để thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh tế địa phương thì cần thiết phải có biện pháp cải thiện kết cấu rừng khu vực này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

4.6. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả PHR thứ sinh nghèo tại xã Yên Lương, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ

4.6.1. Cơ sở đề xuất các giải pháp

Đánh giá hiệu quả giải pháp phục hồi rừng thứ sinh nghèo tại xã Yên Lương, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ - 10

Luận văn này nhằm mục đích điều chỉnh cấu trúc rừng trên cơ sở nghiên cứu cơ bản thông qua phân tích của các quá trình PHR và dựa vào đặc điểm cấu trúc của nó, các đánh giá về quá trình phục hồi rừng và sức khỏe hiện tại của rừng để đề xuất các giải pháp PHR có hiệu quả và thích hợp hơn. Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp đánh giá chất lượng, kết hợp với đánh giá định lượng qua các đặc trưng, đã dựa vào kết quả khảo sát thực địa và lý luận lý thuyết và phương pháp phân tích hệ thống trong nghiên cứu khoa học, cuối cùng đã rút ra được những kết quả sau đây:

Thứ nhất, từ quan điểm của quản lý rừng đã xác định được sức khỏe của rừng: “Sức khỏe rừng là trạng thái được cải thiện về cấu trúc lâm phân, chức năng sinh thái, quá trình phục hồi hay diễn thế của hệ sinh thái rừng thứ sinh nghèo và sự thích ứng của xã hội”.

Thứ hai, đã đề xuất được cơ sở phân chia các giai đoạn PHR thứ sinh một cách định lượng:


(1) Sử dụng tỷ lệ loài cây ở tầng cây cao và loài cây ở giai đoạn cực đỉnh để làm căn cứ phân chia giai đoạn PHR thứ sinh. Kết quả cho thấy: giai đoạn đầu của RPH gồm các loài tiên phong chiếm tỷ lệ chủ yếu ở rừng thứ sinh nghèo.

(2) Sử dụng phương pháp xác định tuổi của tầng chính lâm phần để làm căn cứ phân chia giai đoạn PHR thứ sinh nghèo.

(3) Tổng hợp cả 2 phương pháp này để phân chia giai đoạn PHR thứ sinh thành 4 giai đoạn: Giai đoạn ban đầu, giai đoạn giữa (trung kỳ), giai đoạn gần cực đỉnh và giai đoạn cực đỉnh.

Thứ ba, đã thiết lập được mục tiêu hoạt động kinh doanh rừng thứ sinh, dựa trên hai loại dữ liệu để đề xuất một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả phục hồi rừng thứ sinh nghèo.

Thứ tư, kết quả nghiên cứu cấu trúc rừng thứ sinh nghèo đã cho thấy rõ đặc trưng của nó, từ thành phần loài cây, chiều cao cây trong lâm phần, cấu trúc không gian, cơ cấu tuổi, phân bố đường kính, đặc điểm tái sinh của lâm phần v.v… Kết quả nghiên cứu cho thấy:

(1) Đặc trưng lâm phần: Đường kính, chiều cao trung bình và khối lượng trung bình của lâm phần đều có sự gia tăng dần dần. Trong khi đó mật độ số cây trong lâm phần lúc đầu tăng lên, sau đó có xu hướng giảm dần;

(2) Phân bố không gian của lâm phần: Cấu trúc theo chiều ngang, trong giai đoạn đầu có sự phân bố ngẫu nhiên, ở giai đoạn giữa và giai đoạn gần cao đỉnh thì có kiểu phân bố theo cụm, đám. Với lợi thế của các loài tiên phong liên tiếp giảm dần và lợi thế của các loài chịu bóng có giá trị cao thì tăng dần lên;

(3) Tầng thứ: Theo tiêu chuẩn phân chía tầng thứ của Shanglin (1972) đối với rừng thứ sinh nhiệt đới thì như sau: Tầng 1 (H ≥ 8m), Tầng 2 (H từ 5 - 8m). Như vậy rừng ở khu vực nghiên cứu chỉ có 2 tầng, các cây rừng ở tầng 2 là chủ yếu;

(4) Tuổi cây rừng của tầng tán chính: Giai đoạn đầu chủ yếu là những cây ở cấp tuổi III-IV; tiếp giai đoạn giữa chủ yếu là tập trung những cây ở cấp tuổi II-III;


(5) Phân bố theo cấp đường kính: Phân bố đường kính giai đoạn ban đầu cho thấy có đường cong 1 đỉnh duy nhất, giai đoạn giữa (trung kỳ) cho thấy xuất hiện đường cong 2 đỉnh;

(6) Về tái sinh rừng: Giai đoạn PHR khác nhau có thành phần loài cây tái sinh khác nhau và giai đoạn sớm tái sinh chủ yếu là ưa sáng, mọc nhanh, kém giá trị kinh tế. Giai đoạn giữa bắt đầu xuất hiện tái sinh các loài cây chịu bóng - có giá trị kinh tế nhất định;

(7) Về sức khỏe và tính ổn định của rừng ngày càng tăng.

4.6.2. Đề xuất các giải pháp

Căn cứ vào những phân tích ở trên, kết hợp với tình hình thực tế của xã Yên Lương, huyện Thanh Sơn, đối với thực tiễn phục hồi rừng ở khu vực nghiên cứu, chúng tôi nêu ra những khuyến nghị chính thức như sau:

(1) PHR phải phù hợp với qui luật sinh thái tự nhiên, rừng có quan hệ mật thiết với môi trường, môi trường như thế nào thì sẽ có quần xã rừng như thế đó, ngược lại quần xã rừng cũng phản ảnh thực tế đặc điểm môi trường ở đó. Trong điều kiện sinh thái của xã Yên Lương chúng ta nên chọn cả cây lá rộng bản địa và cây nhập nội mọc nhanh, nhưng do sự can thiệp quá mức của con người điều kiện đất đã bị xấu hoá ở mức độ nhất định, thực bì rừng ở nhiều nơi đã không tồn tại. Với quan điểm lâu dài để xem xét, thông qua kỹ thuật, phương pháp thích hợp phục hồi lại thực bì cây lá rộng bản địa là hoàn toàn có thể.

(2) Sử dụng loài cây bản địa: Cây bản địa sẽ được ưu tiên chọn, là những loài thích nghi tốt nhất và có hiệu quả cao về kinh tế và sinh thái, nên có thể khôi phục rừng và cũng là mục tiêu phục hồi rừng ở vùng này. Áp dụng sách lược tốt nhất là phục hồi cây bản địa của địa phương như Lim xẹt, Trám, v.v...

(3) Điều chỉnh kết cấu loài cây theo hướng đa dạng loài, đa tầng thứ, đa chức năng là mục tiêu cuối cùng của phục hồi rừng. Phục hồi rừng thuần loài, đơn tầng thứ trong thời gian ngắn thì có hiệu quả nhất định, nhưng những loại


rừng đó tính ổn định kém, năng lực đề kháng kém, rất dễ bị phá hoại, cho nên từ lúc bắt đầu phục hồi rừng nên hướng tới mục tiêu phát triển là đa loài cây, đa tầng thứ, đa chức năng. Phục hồi thực bì rừng nên giảm phương thức trồng rừng thuần loài và tăng diện tích rừng hỗn giao.

(4) Xác định mục tiêu phục hồi rừng theo nguyên tắc “Đất nào cây đó”, căn cứ vào các điều kiện môi trường tự nhiên cụ thể như điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, nhiệt độ, lượng mưa, độ cao, độ dốc v.v...

Cải tạo rừng (TRTT) hay làm giàu rừng (LGR): Hiện nay có một số diện tích rừng nghèo kiệt chất lượng kém có thể “Cải tạo” hay LGR, đưa vào dưới tán các loài ưu thế - những loài mấu chốt theo băng hay theo dải để tăng nhanh quá trình PHR hoặc áp dụng biện pháp xúc tiến tái sinh các cây con lá rộng dưới rừng, những nơi có điều kiện sinh cảnh tốt cũng có thể áp dụng phương pháp PHR bằng cách “TRTT”.

(5) Nghiên cứu kỹ thuật: Do điều kiện sinh cảnh vùng nghiên cứu rất đa dạng, nhiều nơi có sự sai khác lớn, cho nên thông qua nghiên cứu kỹ thuật lâu dài, thăm dò và tìm kiếm kỹ thuật phục hồi rừng tốt nhất.

(6) Tăng cường xây dựng rừng sinh thái. Phục hồi rừng là nhiệm vụ mang tính lâu dài, cũng là công trình hệ thống, ngoài nghiên cứu cơ sở và nghiên cứu kỹ thuật, còn phải tăng cường xây dựng mẫu rừng sinh thái để tích luỹ kinh nghiệm nhằm phục hồi rừng phòng hộ ở Thanh Sơn.

Tóm lại, rừng nghèo ở huyện Thanh Sơn đa số là những loài cây lá rộng, điều kiện sinh cảnh của chúng gần giống nhau, mà tương quan giữa các loài thì đại đa số là có tập tính sinh thái khác nhau, nên mối quan hệ giữa các loài cây gỗ là rất rõ ràng và ít có quan hệ với các loài cây cỏ. Thông qua quan hệ giữa loài chúng ta có thể đưa ra mô hình ít loài cây để phục hồi rừng và các phương án trồng rừng khác nhau.

Mặc dù trong điều kiện môi trường khác nhau ở khu vực nghiên cứu như


ánh sáng, nhiệt độ, mưa, đất, độ cao, độ dốc... nên căn cứ vào điều kiện thực tế để chọn cây bản địa hoặc nhiều cây gỗ thích ứng là chính, chọn mô hình phù hợp khác nhau. Về mối quan hệ giữa môi trường và phục hồi quần xã rừng còn phải nghiên cứu thêm để có phương án cụ thể phù hợp với điều kiện sinh thái tự nhiên.

* Một số biện pháp tác động cụ thể:

1) Sớm loại bỏ các loài tái sinh không mong muốn, nên được thu hoạch hàng năm sau đó trồng lại bằng cây bản địa giữ lại cây mọc từ chồi hoặc tái sinh tự nhiên, thúc đẩy sự tăng trưởng của cây rừng.

2) Theo cấp tuổi rừng thứ sinh tự nhiên phân chia các loài cây ra các nhóm: Nhóm cây mục đích, nhóm các loài cây phụ và nhóm cây phi mục đích, để thực hiện việc trồng bổ sung ở các hộ gia đình có khó khăn nhất định. các trường hợp cụ thể của các hộ nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng nên chú ý làm cỏ phát luỗng toàn diện hoặc trên diện tích lớn, chăm sóc tái sinh và chuẩn bị đào đất, sau đó chọn các loài cây bản địa lá rộng sinh trưởng nhanh trồng lại theo cách tiếp cận tương tự như chuyển đổi giá trị thấp của rừng thứ sinh nghèo bằng cách trồng lại, phục hồi lại .

3) Việc cải tạo rừng hiện có bằng cách trồng lại (TRTT) trên diện tích rừng hiện có, một phần đáng kể tái sinh tự nhiên của loài cây chịu bóng có thể được lựa chọn giữ lại, thực hiện các biện pháp trồng rừng dưới tán cây (LGR); cây mạ và cây con tái sinh dưới tán rừng đã được bảo tồn và làm cỏ chăm sóc (cho cây tái sinh có triển vọng) để thúc đẩy sinh trưởng của chúng bằng các biện pháp có thể thực hiện được, do đó, một khu rừng lá rộng thường xanh cần có những biện pháp sau đây:

a/ Tăng cường bảo vệ diện tích rừng tự nhiên cây lá rộng hiện có. Giảm số lượng các thu hoạch ban đầu ở rừng lá rộng thường xanh. Bảo vệ, chăm sóc và nuôi dưỡng lớp cây tái sinh ở các thế hệ thứ hai, thế hệ thứ 3, điều chỉnh các


nhân tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và các tính năng đặc biệt của rừng trong duy trì cân bằng sinh thái, cũng như khả năng tăng độ phì đất và khả năng giữ gìn nguồn nước và phòng bệnh, duy trì khả năng chống sâu bệnh;

b/ Thực hiện biện pháp xúc tiến tái sinh tự nhiên ở rừng tự nhiên để tạo ra kiểu rừng lá rộng thường xanh và tiếp tục phát triển kích thước hợp lý. Nên thúc đẩy việc lợi dụng tái sinh tự nhiên trong nuôi dưỡng và kết hợp tái sinh nhân tạo để phát triển rừng lá rộng. Nhà nước (Uỷ ban nhân dân) thực hành biện pháp đóng cửa rừng, cải tạo rừng thứ sinh để phát triển thành rừng lá rộng thường xanh, thúc đẩy tăng trưởng cây đứng nhanh chóng - biện pháp này chi phí nhỏ. Biện pháp xúc tiến tái sinh tự nhiên so với việc trồng rừng thì biện pháp này đầu tư ít hơn, phục hồi nhanh chóng hơn, dễ thực hiện, và thực tế hơn, phù hợp với tình hình tái sinh tự nhiên ở khu vực;

c/ Giữ gìn, bảo vệ rừng nuôi dưỡng nguồn nước và rừng bảo vệ đất, tăng diện tích các loại rừng phòng hộ nơi dốc, nơi đất cằn cỗi không có lợi cho tái sinh. Tăng tỷ lệ các loài cây làm tăng chất hữu cơ bề mặt đất, tiết kiệm nước, chống xói mòn đất, theo dõi tái sinh các loài cây có giá trị cao trong rừng hỗn giao lá rộng. Trong ngắn hạn, để đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại và tương lai trong các khía cạnh về kinh tế - xã hội, sinh thái, văn hoá và tinh thần từ các hệ sinh thái rừng cần chú trọng phát triển kinh doanh bền vững đối với rừng tự nhiên lá rộng thường xanh. Đây cũng chính là hỗ trợ cuộc sống tồn tại của con người, và cũng để đáp ứng nhu cầu của nhiều người là bảo vệ rừng để bảo vệ môi trường. để hấp thụ khói độc, thanh lọc không khí, điều hoà khí hậu, bảo tồn nước vì vậy rừng đóng một vai trò quan trọng hơn trong việc duy trì cân bằng sinh thái. Bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ, điều chỉnh cơ cấu các nguồn tài nguyên rừng để đáp ứng nhu cầu của xã hội.


KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

* Đăc

điểm cấu trú c rừng nghèo ở vùng nghiên cứu

- Về cấu trúc tổ thành rừng

Tổ thành loài cây ở rừng nghèo khá đa dạng và phong phú, tổng số loài cây gỗ ở khu vực nghiên cứu có 42 loài, song cây có phẩm chất tốt và trung bình không nhiều, hầu hết là những loài ưa sáng, mọc nhanh, đều tuổi, một tầng, giá trị kinh tế thấp chiếm vai trò chủ yếu ở tầng trên, một số loài chịu bóng thường xanh cũng bắt đầu xuất hiện trở lại ở dưới tán rừng.

Trong các ÔTC ở rừng PHSNR (phục hồi sau nương rẫy) từ 5-10 năm có khoảng từ 26 đến 32 loài thực vật, trong đó có 7 loài cây chiếm ưu thế sinh thái. Các loài thường gặp trong các quần xã bao gồm: Thành ngạnh, Thẩu tấu, Bồ đề, Sung, Sảng, Thôi ba, Hu đay, Xoan ta, Trẩu, Ba soi,... và một số loài có giá trị kinh tế đã bắt đầu xuất hiện như: Kháo vàng, Ràng ràng mít ..., giữa các ÔTC không có sự khác biệt lớn về cấu trúc tổ thành loài.

Ở rừng PHSNR từ 10-15 năm: Trong các ÔTC có khoảng từ 30 - 42 loài cây gỗ, trong đó có từ 6 - 8 loài chiếm vai trò ưu thế sinh thái. Ngoài những loài ưa sáng ra trong rừng đã xuất hiện thêm 1 số loài cây chịu bóng hoặc trung tính như Chẹo tía, Trâm, Lim xẹt, kháo nước, Trám trắng, Xoan đào, Trẩu, Bứa, Máu chó lá to,...

Ở rừng PHSNR từ 15- 20 năm: Có khoảng từ 32 - 34 loài cây gỗ, các loài ưa sáng đã bắt đầu suy giảm và chuyển sang những loài chịu bóng và trung tính có tăng lên rõ rết như: Trám trắng, Kháo, Xoan đào, Xoan nhừ, Sồi hương, Chẹo, Lim xẹt, Mán đỉa... Cấu trúc tầng thứ lúc này đã có sự phân biệt khá rõ rệt. Số lượng và chất lượng tái sinh dưới tán rừng ở các giai đoạn gần giống nhau, chỉ có sự khác nhau về đặc điểm sinh học của chúng, có xu hướng chuyển dần từ nhóm loài ưa sáng sang nhóm loài cây trung tính và

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/02/2023