Cơ Sở Thực Tiễn Về Rtsh Và Chất Lượng Quản Lý Rtsh


rác thải đó có hiệu quả nhất, do đó ảnh hưởng tốt nhất và kéo theo đó là mức độ thu phí đạt tỷ lệ cao. Thu phí dựa theo nguyên tắc người gây ô nhiễm cho môi trường phải trả phí để khắc phục cải thiện nó.

- Tiêu chí về thể chế trong việc thu gom rác thải: tiêu chí này đánh giá hiệu quả của sự phối hợp giữa các đơn vị làm công tác thu gom và xử lý rác thải với các tổ chức chính quyền và Nhà nước trong việc quản lý rác thải, giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động thu gom và xử lý rác thải. Hay những cơ chế ràng buộc, kìm hãm hoặc khuyến khích sự tham gia của các cá nhân, tổ chức khác trong hoạt động thu gom và xử lý rác thải.

- Tiêu chí về con người: Đây là nhân tố rất quan trọng có tính quyết định đến chất lượng hoạt động quản lý nói chung và công tác quản lý chất thải nói riêng. Vì vậy, quan tâm đến nhân tố con người là nền tảng của mọi thành công trong mọi lĩnh vực đòi hỏi phải đầu tư vào đào tạo phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, có lòng yêu nghề. Có như vậy mới tạo tiền đề và cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động thu gom và xử lý RTSH.

c. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình chất thải rắn sinh hoạt phát sinh

- Tình hình phân bố dân cư

- Công ty CP Môi trường và Dịch vụ đô thị Việt Trì

- Tình hình chất thải rắn phát sinh của các hộ gia đình

- Thành phần của rác thải sinh hoạt

- Chi phí hiện tại cho hệ thống quản lý và xử lý chất thải sinh hoạt

- Doanh thu từ việc thu phí và sự hỗ trợ của chính phủ

1.2. Cơ sở thực tiễn về RTSH và chất lượng quản lý RTSH

1.2.1. Cơ sở thực tiễn về RTSH‌

1.2.1.1. Tình hình phát sinh RTSH của một số nước trên thế giới


Tình hình phát sinh rác thải ở mỗi nước trên thế giới là rất khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế - xã hội và hệ thống quản lý của mỗi nước. Theo nguyên tắc thì các nước có thu nhập cao có tỷ lệ phát sinh RTSH cao. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây ở các nước đang phát triển cho thấy, tỷ lệ phát sinh chất thải tính theo các mức thu nhập khác nhau lại không theo nguyên tắc này. Theo kết quả nghiên cứu của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA,1997), tỷ lệ phát sinh RTSH đô thị ở Philipin theo các nhóm người có thu nhập khác nhau là: thu nhập cao: 0,37-0,55kg/người/ngày, thu nhập trung bình 0,37- 0,60kg/người/ ngày và thu nhập thấp là 0,62-0,90 kg/người/ ngày. Tương tự, các kết quả phân tích tỷ lệ phát sinh RTSH đô thị theo GDP tính trên đầu người của các nước thuộc OECD, Hoa Kỳ được xếp vào nhóm các nước có tỷ lệ phát sinh cao; nhiều nước thuộc Liên minh châu Âu được xếp vào nhóm có tỷ lệ phát sinh trung bình và Thụy Điển, Nhật Bản được xếp vào nhóm có tỷ lệ phát sinh thấp [15].

Châu Á có mức tăng trưởng kinh tế và đô thị hoá nhanh trong vài thập kỷ qua. Vấn đề RTSH là một trong những thách thức môi trường mà các nước trong khu vực phải đối mặt. Trừ Trung Quốc, tỷ lệ phát sinh RTSH đô thị của các nước vào khoảng từ 0,5 kg đến 1,5 kg/người/ngày. Tại một số thành phố lớn của Trung Quốc, tỷ lệ này vào khoảng 1,12 đến 1,2 kg/người/ngày. Tỷ lệ phát sinh RTSH đô thị tăng theo tỷ lệ thuận với mức tăng GDP tính theo đầu người. Chất hữu cơ là thành phần chính trong RTSH đô thị trong khu vực và chủ yếu được chôn lấp do chi phí rẻ. Các thành phần khác như giấy, thuỷ tinh, nhựa, kim loại hầu hết được khu vực không chính thức thu gom và tái chế. Theo Ngân hàng Thế giới, các khu vực đô thị của châu Á mỗi ngày phát sinh khoảng 760.000 tấn RTSH đô thị. Đến năm 2025, con số này sẽ tăng 1,8 triệu tấn/ngày [15].


1.2.1.2. Tình hình phát sinh RTSH ở Việt Nam

Trong những năm qua, tốc độ đô thị hóa diến ra rất nhanh đã trở thành nhân tố tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích về kinh tế - xã hội, đô thị hóa nhanh chóng đã tạo ra sức ép về nhiều mặt, dẫn đến suy giảm môi trường và phát triển không bền vững.

Lượng RTSH tại các đô thị ở nước ta phát sinh ngày càng tăng, tính trung bình mỗi năm tăng khoảng 10-15%. Tỷ lệ tăng cao tập trung ở các đô thị đang mở rộng, phát triển mạnh cả về quy mô lẫn dân số và các khu công nghiệp, như các đô thị tỉnh Phú Thọ (19,9%), thành phố Phủ Lý (17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch Giá (12,7%), Cao Lãnh (12,5%)... Các đô thị khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ phát sinh RTSH tăng đồng đều hàng năm và với tỷ lệ tăng ít hơn (5,0%). Theo thống kê năm 2008, lượng RTSH sinh hoạt trung bình từ 0,6-0,9 kg/người/ngày ở các đô thị lớn và 0,4-0,5 kg/người/ngày ở các đô thị nhỏ, thị trấn thị tứ. Đến năm 2013 và 2014, tỷ lệ này ở các đô thị lớn đã tăng lên tương ứng là 0,9-1,3 kg/người/ngày.

Bảng 1.4: Lượng phát sinh rác thải sinh hoạt ở Việt Nam năm 2014‌


Khu vực

Lượng phát thải theo đầu người (kg/người/ngày)

% So với tổng lượng chất thải

1. Đô thị (toàn quốc)

0,7

50

- TP Hồ Chí Minh

1,3

9

- Hà Nội

1

6

- Đà Nẵng

0,9

2

2. Nông thôn (toàn quốc)

0,3

50

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

(Nguồn : Tổng cục môi trường,2014)

Hiện nay, lượng RTSH đô thị phát sinh chủ yếu tập trung ở 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Tuy chỉ có 2 đô thị nhưng tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tới 8.000 tấn/ngày (2.920.000 tấn/năm) chiếm 45,24% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ tất cả các đô thị.



Biểu đồ 1 1 Số lượng RTSH phát sinh ở các loại đô thị khác nhau Nguồn 1


Biểu đồ 1.1. Số lượng RTSH phát sinh ở các loại đô thị khác nhau

(Nguồn: Tổng cục môi trường,2014)

Theo bảng 1.5 vùng địa lý (hay vùng phát triển kinh tế - xã hội) thì các đô thị vùng Đông Nam Bộ có lượng RTSH phát sinh lớn nhất tới 6.713 tấn/ngày hay 2.450.245 tấn/năm (chiếm 37,94% tổng lượng phát sinh RTSH các đô thị loại III trở lên của cả nước), tiếp đến là các đô thị vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm 25,12%. Tiếp đến là các đô thị khu vực miền núi Tây Bắc Bộ, Tây Nguyên.

Bảng 1.5: Lượng RTSH đô thị theo vùng địa lý ở Việt Nam năm 2013‌



TT


Đơn vị hành chính

Lượng RTSH bình

quân đầu người (kg/người/ngày)

Tổng lượng

RTSH đô thị phát sinh (tấn/ngày)

1

Đồng bằng sông Hồng

0,81

4.441

2

Đông Bắc

0,76

1.164

3

Tây Bắc

0,75

190

4

Bắc Trung Bộ

0,66

755

5

Duyên hải Nam Trung Bộ

0,85

1.640

6

Tây Nguyên

0,59

650

7

Đông Nam Bộ

0,79

6.713

8

Đồng bằng sông Cửu Long

0,61

2.136

Tổng cộng

0,73

17.692

(Nguồn: Tổng cục môi trường 2014)

Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường đưa ra trong báo cáo về các nội dung chuẩn bị cho “Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục và


cải thiện ô nhiễm môi trường giai đoạn 2012-2015” dự báo năm 2015 khối lượng RTSH phát sinh trong cả nước sẽ lên tới 44 triệu tấn [13, 19].

1.2.2. Cơ sở thực tiễn về chất lượng quản lý RTSH‌

1.2.2.1. Chất lượng quản lý RTSH của một số nước trên thế giới

Công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là vấn đề quản lý các loại chất thải phát sinh do hoạt động sản xuất đang được các nước trên thế giới rất quan tâm. Chính phủ các nước đang tìm mọi cách để tìm ra phương án tối ưu giải quyết vấn đề này. Để xử lý RTSH trên thế giới hiện nay có nhiều phương pháp khác nhau, tùy từng điều kiện kinh tế xã hội và mức độ phát triển mà mỗi nước có phương pháp xử lý và công tác quản lý riêng. Ở các nước phát triển, mặc dù lượng RTSH là rất lớn nhưng họ có điều kiện về khoa học kỹ thuật, và hệ thống quản lý môi trường tốt cho nên môi trường vẫn không bị suy thoái, còn ở các nước kém phát triển dù lượng RTSH ít hơn rất nhiều nhưng do hệ thống quản lý môi trường chậm phát triển nên môi trường ở nhiều nước có xu hướng suy thoái nghiêm trọng.

Các đô thị khác nhau trên thế giới thì có những hoạt động quản lý rác thải khác nhau. Nhưng tóm lại, quản lý rác thải nói chung muốn có hiệu quả phải bao gồm các hoạt động chính sau: Giảm thiểu nguồn phát sinh, thu gom, tái sử dụng-tái chế, thu hồi năng lượng từ chất thải rắn, chôn lấp hợp vệ sinh. RTSH cũng là một loại chất thải rắn và cũng cần phải được quản lý một cách hiệu quả nhằm bảo vệ môi trường trong sạch và sự phát triển bền vững.

Chất thải được thu gom trên thế giới dao động trong khoảng 2,5 đến 4 tỷ tấn (không kể chất thải tháo rỡ và xây dựng, khai thác mỏ và nông thôn). Năm 2014, tổng lượng RTSH đô thị được thu gom trên toàn thế giới ước tính khoảng 1,2 tỷ tấn (chỉ tính cho các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD, các đô thị mới nổi và các nước đang phát triển).


Bảng 1.6: Lượng thu gom RTSH trên thế giới năm 2014‌



TT


Tên

Khối lượng được thu gom (triệu tấn)

1

Các nước thuộc tổ chức Hợp tác và phát triển OECD

620

2

Cộng đồng các quốc gia độc lập CIS

65

3

Châu Á (trừ các nước OECD)

300

4

Trung Mỹ

30

5

Nam Mỹ

86

6

Bắc Phi và Trung Đông

50

7

Châu Phi và cận Sahara

53

Tổng số

1204

(Nguồn: Khảo sát của cơ quan Dịch vụ môi trường Veolia và Cyclope, 2014)

Về việc công tác quản lý rác trên thế giới, có thể trích dẫn ra đây kinh nghiệm của một số quốc gia [14, 22].

a. Nhật Bản

Nhật Bản là đất nước thành công về tăng trưởng kinh tế và duy trì tỷ lệ phát sinh RTSH thấp so với nhiều nước có GDP cao. Năm 2000, Nhật Bản bắt đầu áp dụng khái niệm mới về xây dựng một “Xã hội tuần hoàn vật chất hợp lý” hay còn gọi là 3R (Giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế). Từ những năm 1980, tỷ lệ phát sinh RTSH đô thị của Nhật Bản đã ổn định ở mức khoảng 1,1 kg/người/ngày. Mỗi năm, Nhật Bản thải ra khoảng 55-60 triệu tấn rác nhưng chỉ khoảng 5% trong số đó phải đưa tới bãi chôn lấp còn phần lớn được đưa đến các nhà máy tái chế. Tại Nhật Bản, khung pháp lý quốc gia hướng tới giảm thiểu chất thải nhằm xây dựng một xã hội tái chế bao gồm hệ thống luật và quy định của nhà nước. Hiện nay, Nhật Bản là nước áp dụng phương pháp thu hồi RTSH cao nhất (38%) thế giới, trong khi các nước khác chỉ sử dụng phương pháp đốt và xử lý vi sinh vật là chủ yếu. Mặt khác, chính phủ Nhật Bản đó có những chính sách thúc đẩy và khuyến khích việc quản lý RTSH trên cơ sở của sự tham gia tích cực của người dân. Bên cạnh đó, Nhật Bản có


những mô hình phân loại và thu gom RTSH rất hiệu quả. Các hộ gia đình đã phân loại rác thành 3 loại riêng biệt và cho vào 3 túi với màu sắc theo quy định: rác hữu cơ; rác vô cơ và giấy vải, thuỷ tinh; rác kim loại. Rác hữu cơ được đưa đến nhà máy xử lý rác để sản xuất phân vi sinh. Các loại rác còn lại: giấy, vải, thuỷ tinh, kim loại…được đưa đến cơ sở tái chế hàng hoá.

Một điều rất quan trọng nữa là Nhật Bản đã thực hiện rất có hiệu quả chính sách quản lý chất thải sau: Giảm thiểu chất thải; Thành lập các cơ sở hủy bỏ chất thải; Xúc tiến sử dụng các nguồn vật liệu có thể tái tạo [19].

b. Singapo

Singapo không có nhiều diện tích đất để chôn lấp chất thải như những quốc gia khác. Các công đoạn trong hệ thống quản lý rác của Singapo hoạt động hết sức nhịp nhàng và ăn khớp với nhau từ khâu thu gom, phân loại, vận chuyển đến tận khâu xử lý bằng đốt hay chôn lấp. Xử lý khí thải từ các lò đốt rác được thực hiện theo quy trình nghiêm ngặt để tránh sự chuyển dịch ô nhiễm từ dạng rắn sang dạng khí. Xây dựng bãi chôn lấp rác trên biển sẽ tiết kiệm được đất đai trong đất liền [3, 19].

c. Anh

Ở Anh công nghệ tái chế và tái sử dụng chất thải rất phát triển. Điều đó làm giảm đáng kể lượng rác thải chôn lấp (đổ bỏ). Rác được phân loại sơ bộ tại nguồn, sau đó thu gom và vận chuyển đến trung tâm phân loại rác. Rác ở đây được phân loại thành các thành phần có thể tái chế (kim loại, nhựa, vải, giấy…) thành phần cháy được và thành phần không cháy được. Những chất cháy được chuyển tới nhà máy đốt rác, những chất không cháy được chở đến cảng trung chuyển, đổ lên xà lan và chở tới khu chôn lấp rác Semakau ngoài biển [19, 21].

d. Malaixia

Tại Malaixia, rác thải phát sinh chủ yếu được đem chôn lấp, một phần được đem tái chế. Khoảng 76% RTSH phát sinh ở nước này được thu gom,


song chỉ có 1,2% được tái chế, số còn lại được chuyển đến 144 bãi chôn lấp. Nhờ áp dụng hệ thống quản lý chất thải tổng hợp, việc quản lý chất thải có hiệu quả và năng suất cao có thể làm tăng tuổi thọ bãi chôn lấp và chiết suất nguyên liệu đạt kết quả trong các quy trình thu hồi. Bằng biện pháp quản lý này có thể xử lý tới 87% tổng số RTSH phát sinh hay 14.800 tấn/ngày ở Malaixia [19, 21].

1.2.2.2. Chất lượng quản lý RTSH ở Việt Nam

a. Thực trạng chất lượng công tác quản lý RTSH ở Việt Nam

Hiện nay, công tác quản lý RTSH đang là vấn đề nan giải đối với nhiều địa phương trong cả nước. Lượng RTSH được thu gom tại các đô thị Việt Nam chỉ đạt khoảng 70% so với yêu cầu thực tế. Vì vậy, loại chất thải này đang trở thành nguyên nhân chính yếu gây ô nhiễm môi trường nước mặt, không khí, đất, cảnh quan đô thị và tác động xấu tới sức khỏe cộng đồng; đồng thời tốn nhiều quỹ đất, không tận dụng được để tái chế, tái sử dụng. Riêng thống kê năm 2012, tổng lượng RTSH gần 230 triệu tấn, song công tác xử lý chủ yếu vẫn là chôn lấp với số lượng trung bình từ 1-2 bãi rác mỗi đô thị. Trong đó có 85% số đô thị từ xã trở lên sử dụng phương pháp đổ thải không hợp vệ sinh, mới có 16/98 bãi chôn lấp chất thải tập trung đạt yêu cầu. Như vậy, trung bình mỗi đô thị ở Việt Nam có từ 1-2 bãi chôn lấp chất thải cần cải tạo và phục hồi môi trường.

Công tác quản lý RTSH ở Việt Nam hiện nay còn chưa tiếp cận được với phương thức quản lý tổng hợp trên quy mô lớn, chưa áp dụng đồng bộ các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế (3R) để giảm tỷ lệ chất thải phải chôn lấp. Hoạt động giảm thiểu phát sinh RTSH, một trong những giải pháp quan trọng và hiệu quả nhất trong quản lý chất thải, còn chưa được chú trọng, chưa có các hoạt động giảm thiểu RTSH. Hoạt động phân loại tại nguồn chưa được áp dụng rộng rãi, chỉ mới được thí điểm trên qui mô nhỏ ở một số thành

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/01/2023