Bảng 2-4: Lượng học sinh trung cấp đang học tại Trường CĐ Du lịch Vũng Tàu
K43 | K44 | Tổng cộng | |
Chế biến món ăn | 28 | 52 | 52 |
Lễ tân Khách sạn | 15 | 15 | |
Tổng cộng: | 43 | 52 | 67 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tính Vô Hình (Intangibility): Dịch Vụ Không Có Hình Thái Vật Chất.
- Tổng Quan Hoạt Động Du Lịch – Khách Sạn Trên Địa Bàn Tỉnh Br-Vt
- Thống Kê Cơ Sở Lưu Trú Theo Địa Phương Và Hạng
- Sự Liên Kết Giữa Nhà Trường Và Các Doanh Nghiệp :
- Bảng Phương Sai Trích Khi Phân Tích Nhân Tố Rotated Component Matrixa
- Các Nhân Tố Mạnh, Yếu Của Đào Tạo Nhân Lực Ngành Du Lịch – Khách Sạn Tại Trường Cao Đẳng Du Lịch Vũng Tàu Hiện Tại.
Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.
Nguồn: Trường CĐ Du lịch Vũng Tàu
4. Thực trạng chất lượng đào tạo nhân lực du lịch của Trường Cao đẳng Du lịch Vũng Tàu.
Thực trạng công tác tuyển sinh ngành Du lịch Đối với trường Cao đẳng Du lịch Vũng Tàu đã trải qua hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành, đào tạo được trên
40.000 cán bộ có trình độ cao đẳng, TCCN và Nghề cung cấp cho hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, cho các cơ quan ban ngành ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và cho nhu cầu xuất khẩu lao động. Trong đó, riêng đào tạo các ngành có liên quan về du lịch chiếm bình quân khoảng 60%, đặc biệt là ngành phục vụ ăn uống.
Bên cạnh việc đào tạo chính quy, Nhà trường còn mở các lớp đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng nâng bậc cho các ngành nghề như kỹ thuật chế biến món ăn, nghiệp vụ pha chế đồ uống, nghiệp vụ bàn, nghiệp vụ bar...
Chương trình, thời gian đào tạo - thực tập
Về chương trình đào tạo: Chương trình đào tạo chuyên ngành du lịch của trường được thiết kế theo chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo đồng thời được cụ thể hoá theo chương trình đào tạo của Nhà trường.
* Cấu trúc kiến thức của chương trình đào tạo cơ bản gồm:
- Kiến thức giáo dục đại cương (Gồm cả giáo dục quốc phòng)
- Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp:
+ Kiến thức cơ sở ngành
+ Kiến thức ngành
+ Kiến thức ngoại ngữ chuyên ngành
+ Khối lượng thực tập nghề nghiệp
+ Báo cáo thực tập tốt nghiệp
* Các chương trình đào tạo khác: Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, một ngành kinh tế nhạy cảm, nó ngay lập tức chịu ảnh hưởng, chịu sự điều tiết của thị trường từ các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khí hậu, thời tiết... Là một ngành kinh tế mang tính động rất cao nên đòi hỏi nhân lực liên quan đến hoạt động du lịch phải có tính thích ứng nhanh, thích ứng cao. Xác định được điều đó, Nhà trường đã chủ động liên kết để phối hợp bổ sung các kiến thức đặt ra từ thực tế như tổ chức đào tạo các chương trình ngắn hạn như bồi dưỡng nâng bậc cho nhân viên các nhà hàng, khách sạn, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ ấu ăn cho các giáo viên mầm non, tiểu học....
Chất lượng đào tạo của trường thông qua các tiêu chí: Trình độ kiến thức được đào tạo. Kiến thức trong chương trình đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quy định đảm bảo được các mục tiêu tương ứng với từng cấp học; đảm bảo tính khoa học, thực tiễn đáp ứng kịp với sự phát triển của xã hội và sự thay đổi của thực tiễn thị trường lao động. Phân bổ thời gian hợp lý giữa các môn học, các kỳ học để hoàn thành mục tiêu đào tạo. Đảm bảo tính liên thông giữa các trình độ, người học ra trường có được những kiến thức về lý luận và kiến thức để thực hành các thao tác. Trình độ kiến thức đào tạo được thể hiện ở
toàn bộ các môn học ghi trong kế hoạch đào tạo của từng chuyên ngành, từng bậc học và ở nội dung của từng môn học.
Nội dung đào tạo gồm 3 nhóm:
+ Khối kiến thức chung: Gồm các môn Chính trị, giáo dục quốc phòng, giáo dục thể chất, pháp luật...
+ Khối kiến thức cơ sở: Được trang bị để làm nền tảng cho việc tiếp thu lý thuyết chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp
+ Khối kiến thức chuyên ngành: Là các môn lý thuyết chuyên môn nghề nghiệp.
Dựa trên các mục tiêu đào tạo của từng chuyên ngành, nhà trường đã có sự chọn lọc, điều chỉnh các học phần cho phù hợp với mục tiêu đào tạo. Một số chuyên ngành đào tạo truyền thống của Nhà trường đã được sửa đổi và thiết kế nội dung bằng những học phần thích hợp với kinh tế thị trường và thương mại trong điều kiện hiện nay . Một số học phần có điều chỉnh giảm, ví dụ như chuyên ngành Việt Nam học giảm số giờ học lý thuyết Nghiệp vụ Lễ tân từ 60 tiết xuống còn 45 tiết và tăng phần Thực hành điều hành tour.
Tuy nhiên sự điều chỉnh vẫn chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế của thị trường nên chất lượng đào tạo chưa thực sự cao. Về thực trạng trình độ kiến thức được đào tạo của Nhà trường được thể hiện ở Kỹ năng, kỹ xảo và Năng lực nhận thức, tư duy của người học.
Cụ thể như sau: Kỹ năng, kỹ xảo Đánh giá chung về kỹ năng, kỹ xảo của HSSV các ngành đào tạo du lịch khi ra trường đều hiểu được các nghiệp vụ chuyên môn, các thiết bị công nghệ phục vụ chuyên ngành và thao tác thực hành các kỹ năng cơ bản mà không cần sự kèm cặp của giáo viên hướng dẫn. Một số HSSV còn có khả năng thao tác các công việc đạt mức chuẩn hoá về yêu cầu kỹ thuật, thẩm mỹ và đúng thời gian quy định. Tuy nhiên chưa có HSSV thể hiện được các kỹ năng ở góc độ điêu luyện thành “kỹ xảo”
Năng lực nhận thức và tư duy : Để đánh giá được năng lực nhận thức và tư duy của người học, hàng năm nhà trường đều có các cuộc khảo sát thực tế đối với HSSV đang trực tiếp theo học tại trường và những HSSV đã từng học tại trường
hiện đang làm việc tại các công ty du lịch, nhà hàng, khách sạn và các tổ chức khác. Kết quả thu thập được từ các phiếu thăm dò, thông qua phỏng vấn trực tiếp và qua xử lý thông tin, có được kết quả về năng lực nhận thức và năng lực tư duy của HSSV Nhà trường
Về phẩm chất nhân văn
Ngay từ những ngày đầu nhập học, Nhà trường đã tổ chức các buổi lên lớp đầu khoá về các nội dung chính trị, nội quy quy chế của Nhà trường, của địa phương nhằm giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức, lối sống cho người học. Đây được xem là nhiệm vụ trọng tâm của Nhà trường đối với HSSV mới nhập học. 100% HSSV tham gia các lớp học này và được nhà trường quản lý, giám sát chất lượng. Kết quả phải đạt yêu cầu chất lượng đề ra thông qua các bài thu hoạch. Bên cạnh đó, Nhà trường còn chỉ đạo Đoàn thanh niên, Hội sinh viên và các tổ chức đoàn thể khác để tổ chức các chương trình giao lưu ngoại khoá như các cuộc thi tìm hiểu về Đoàn, Đảng, Bác Hồ, Công đoàn...; tổ chức các buổi nói chuyện về truyền thống của Nhà trường nhằm giúp các em có được các kiến thức cơ bản để định hướng, xác định mục tiêu rõ ràng và động lực để các em phấn đấu. Nhà trường còn phối hợp với các tổ chức khác như: Công an của thành phố Vũng Tàu để tuyên truyền về luật an toàn giao thông, phòng chống ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác, tuyên truyền về sức khoẻ, giới tính, tổ chức học tập Nghị quyết mới của Đảng. Ngoài ra Nhà trường còn có các buổi nói chuyện từ các Công ty Du lịch, khách sạn trên địa bàn tỉnh để giúp các em có các đợt thực tập, kiến tập, cơ hội tiếp xúc thực tiễn nghề nghiệp, cơ hội đối thoại với các Nhà quản lý Doanh nghiệp Du lịch nhằm giúp các em có được những thắc mắc, có thêm những kiến thức, những hành trang để lập nghiệp. Phòng Công tác HSSV của Nhà trường thường xuyên phối hợp với Đoàn thanh niên tổ chức nhiều hoạt động nhằm tuyên truyền đạo đức lối sống lành mạnh, phòng chống tội phạm, ma tuý học đường, phòng chống mại dâm và các tệ nạn xã hội khác. Hàng năm, Nhà trường tổ chức thi Nghiệp vụ giỏi, tay nghề giỏi nhằm khích lệ các em học tập, phát động được phong trào thi đua cho cá nhân và tập thể lớp. Thành lập các câu lạc bộ: câu lạc bộ tiếng anh, câu lạc bộ khiêu vũ..., các đội văn nghệ, đội xung kích, đội tình nguyện
và thường xuyên có các hoạt động nhằm tạo sân chơi lành mạnh cho các em. Qua đó, giúp các em có cơ hội giao lưu, học hỏi kinh nghiệm trong học tập và rèn luyện. Nhìn chung, đa số HSSV có ý thức tự giác rèn luyện đạo đức lối sống lành mạnh, tích cực hưởng ứng và tham gia các hoạt động, các phong trào do Nhà trường tổ chức. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít HSSV, do tác động của môi trường xã hội, có lối sống buông thả, chơi bời, thường xuyên nghỉ học tự do... dẫn đến kết quả học tập và rèn luyện kém, vi phạm các nội quy, quy định của Nhà trường. Trong số đó có nhiều em đã được Phòng Quản lý HSSV gọi lên nhắc nhở, gọi điện, gửi thông báo về gia đình, ra các quyết định kỷ luật từ Khiển trách đến Buộc thôi học. Qua phân tích các tiêu chí trên cho thấy chất lượng đào tạo của Nhà trường vẫn còn không ít những hạn chế, đặc biệt là các kỹ năng mềm - kỹ năng vô cùng quan trọng để giúp các em thành công trên con đường lập nghiệp của mình sau này
4.1 Thực trạng các yếu tố đảm bảo chất lượng của Nhà trường Đầu vào
Đối với Trường Cao đẳng Du lịch Vũng Tàu thì HSSV đầu vào của ngành Du lịch rất đa dạng và phong phú bao gồm cả học sinh tốt nghiệp THPT, THCS... từ các trường công lập, bán công, trung tâm giáo dục thưòng xuyên... Đây là một bài toán khiến Nhà trường gặp không ít khó khăn trong công tác tổ chức và quản lý; giáo viên cũng gặp khó khăn trong truyền tải cùng một nội dung kiến thức cho các đối tượng khác nhau. Thực trạng trên ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo của Nhà trường.
Chương trình đào tạo của Nhà trường
Chương trình đào tạo của Nhà trường cơ bản phù hợp với chương trình khung do Bộ giáo dục và đào tạo; Bộ lao động thương binh xã hội quy định; đảm bảo tính khoa học, thực tiễn và đáp ứng kịp với sự thay đổi của thực tiễn thị trường lao động. Có sự phân bổ thời gian hợp lý giữa các môn học, các học kỳ để hoàn thành mục tiêu đào tạo. Đảm bảo tính liên thông giữa các trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc gia. Bên cạnh chương trình khung do Bộ quy định, Nhà trường còn cụ thể hoá một số học phần cho phù hợp với điều kiện thực tiễn, đảm bảo tính mới trong đào tạo. Với chương trình đào tạo đó, đảm bảo cho người học có đầy đủ kiến
thức một cách toàn diện về chuyên môn và năng lực thực hành các công việc trong chuyên ngành đào tạo. Người học có đầy đủ sức khoẻ, phẩm chất nhân văn, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp. Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện về chương trình đào tạo, với phương châm: Học đi đôi với hành; xoá bỏ tình trạng dạy chay - học chay, Nhà trường đã tập trung huy động mọi nguồn lực, động viên các đội ngũ khoa học, đội ngũ giáo viên tham gia làm sáng kiến cải tiến, biên soạn các bài giảng theo cách tiếp cận mới của người học như: Bài giảng bằng giáo án điện tử, bài tập quản lý theo nhóm... để đáp ứng nhu cầu dạy và học của giáo viên và HSSV. Đến nay, tỷ lệ các môn học chuyên ngành Du lịch có giáo trình riêng đạt khoảng 85%. Công tác chỉnh sửa, biên soạn giáo trình và chương trình đào tạo cũng đã được triển khai nhưng đầu tư về thời gian và kinh phí còn hạn hẹp, nhiều khi còn chưa đúng đối tượng. Do đó, chất lượng chương trình đào tạo chưa cao, nhiều môn học nội dung còn trùng lặp và không phù hợp với trình độ của người học và thực tiễn
Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên: Đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo của Nhà trường - Về số lượng giảng viên du lịch của trường Cao đẳng Du lịch Vũng Tàu: Theo nguồn thông tin từ phòng Tổ chức hành chính trường Cao đẳng Du lịch Vũng Tàu, tổng số cán bộ, công nhân viên, giảng viên của trường tính đến thời điểm tháng 7 năm 2017 là 99 người, trong đó tổng số giảng viên cơ hữu là 64 người và 10 người là giảng viên kiêm nhiệm. Nhà trường đào tạo các chuyên ngành mang tính đặc thù của trường, làm lên thương hiệu trường Cao đẳng Du lịch Vũng Tàu. Đặc biệt là các chuyên ngành như: Chế biến món ăn, Hướng dẫn du lịch, Lễ tân, Quản trị nhà hàng, Quản trị khách sạn… Vài năm gần đây, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học, nhà trường có mở thêm một số chuyên ngành mới về du lịch và ngành khác nữa như: Kế toán doanh nghiệp. Theo đặc thù các môn học của trường thì tổng số giảng viên về du lịch (bao gồm cả giảng viên kiêm nhiệm) là 74 người. Có thể nói, lực lượng giảng viên du lịch của trường khá hùng hậu, chiếm phần lớn trong tổng số giảng viên.
Về chất lượng của đội ngũ giảng viên du lịch của trường Cao đẳng Du lịch Vũng Tàu:
+ Theo trình độ chuyên môn: Trong tổng số giảng viên về du lịch của trường Cao đẳng Du lịch Vũng Tàu năm 2016 - 2017, 98% giảng viên đều có trình độ đại học và sau đại học. Tỷ lệ giảng viên có trình độ đại học và sau đại học ngày càng tăng lên cả về con số tương đối lẫn con số tuyệt đối. Nếu như năm 2009, số giảng viên có trình độ thạc sỹ chỉ là 26,67% và trình độ đại học là 68% thì năm 2017 tỷ lệ này là 44,57% và 51,8%. Đặc biệt năm 2012 vẫn còn 13% giảng viên du lịch có trình độ cao đẳng, sau đó giảm dần, cho tới năm 2017 thì một số giảng viên này đã được học tập nâng cao trình độ lên đại học. Tuy vậy, số giảng viên có trình độ này trước đây chỉ được nhà trường bố trí giảng dạy, hướng dẫn thực hành (đối với các học phần có cả thực hành và lý thuyết hoặc các học phần thực hành) Điều này cho thấy chất lượng của đội ngũ giảng viên ngày càng được nâng cao. Nguyên nhân của việc tăng này là do nhà trường đã chú trọng tuyển chọn đầu vào, chỉ tuyển giảng viên là những người có trình độ tối thiểu đại học. Bên cạnh đó, với các giảng viên có nguyện vọng, nhà trường cũng cố gắng tạo điều kiện đồng thời khuyến khích để các giảng viên khác đi học cao học. Đây là một thuận lợi đối với các giảng viên trong việc học tập nâng cao trình độ và tạo điều kiện để nhà trường hướng tới chuẩn hóa đội ngũ giảng viên nói chung và đội ngũ giảng viên về du lịch nói riêng nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo nói chung.
Theo trình độ ngoại ngữ, tin học: Nguồn nhân lực du lịch ở nước ta rất yếu về khả năng sử dụng ngoại ngữ để giao tiếp và đội ngũ giảng viên về du lịch cũng nằm trong số đó. Trình độ ngoại ngữ của các giảng viên về du lịch thường chỉ là những trình độ sơ cấp, thiên về kỹ năng ngữ pháp hơn là các kỹ năng nghe, nói và giao tiếp trực tiếp với khách hàng. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng phát triển nghề nghiệp và công tác đào tạo nghề du lịch. Ngay cả với những giảng viên chuyên dạy ngoại ngữ du lịch thì bản thân họ hầu hết cũng không được đào tạo ngoại ngữ du lịch một cách bài bản cho dù xuất thân từ những trường Đại học ngoại ngữ có uy tín. Do vậy, khi được tuyển dụng vào trường để giảng dạy, lúc đó những giảng viên này mới bắt đầu nghiên cứu sâu về ngoại ngữ chuyên ngành, điều này vốn đã khó khăn cộng thêm họ cũng hầu như không có kiến thức về du lịch nên việc đào tạo ngoại ngữ trong các trường cao đẳng du lịch khá khập khiễng. Ngược lại
những giảng viên được đào tạo chuyên ngành du lịch bài bản thì khả năng sử dụng ngoại ngữ lại rất kém nhất là các kỹ năng nghe, nói. Do đó họ gặp khó khăn trong việc giao tiếp, hay khi tham dự các khóa học, đào tạo du lịch bằng ngoại ngữ do phía nước ngoài liên kết tổ chức và nghiên cứu tài liệu nước ngoài phục vụ cho giảng dạy. Điều này làm hạn chế khả năng phát triển nghề nghiệp và giảm chất lượng đội ngũ giảng viên về du lịch, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn lao động du lịch được đào tạo. Nguyên nhân của những bất cấp này một phần từ hệ thống đào tạo ngoại ngữ ở nước ta song phần chủ yếu là do khả năng tự học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ của chính các giảng viên chưa cao. Các kỹ năng nghe nói bằng ngoại ngữ phải được rèn luyện trong thực tế, trong giao tiếp thường xuyên thì mới có hiệu quả. Bên cạnh đó, một phần vì điều kiện kinh phí còn hạn chế nên việc bồi dường nâng cao trình độ ngoại ngữ thật không dễ dàng. Các trường Cao đẳng cũng cần có những chính sách bồi dưỡng ngoại ngữ cho các giảng viên của mình bằng cách tạo điều kiện về thời gian, cấp thêm kinh phí, khuyến khích hoặc có những đãi ngộ thỏa đáng đối với những giảng viên đạt trình độ ngoại ngữ nhất định. Số lượng giảng viên vừa có chuyên môn cao vừa có kinh nghiệm không nhiều. Trên thực tế, những người có kỹ năng nghề rất tốt, nhiều kinh nghiệm thực tế thì lại khó được tuyển vào làm giảng viên vì trình độ chuyên môn không đạt yêu cầu, họ có thể mới ở trình độ TCCN hoặc Cao đẳng. Hàng năm, nhà trường vẫn cử các giảng viên đi học tập cọ sát thực tế, nâng cao kinh nghiệm nghề nghiệp nhưng công tác này chưa đều đặn. Năm 2007, 2008 nhiều lượt giảng viên về du lịch của trường đã được cử đi đào tạo trong khuôn khổ Dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam về các nghề như: Lễ tân, buồng, bàn, bar, chế biến món ăn, hướng dẫn du lịch, điều hành tour, quản lý khách sạn…Tuy vậy, kết quả thật sự chưa khả quan.
+ Theo trình độ sư phạm: Các giảng viên khi được tuyển dụng về trường đều ưu tiên những người đã học nghiệp vụ sư phạm, còn lại đều được tạo điều kiện học nghiệp vụ sư phạm bổ sung sau đó. Năm 2009, nhà trường đã liên kết với trường Đại học sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh tổ chức lớp học lấy chứng chỉ sư phạm nghề cho toàn bộ các giảng viên đã qua nghiệp vụ sư phạm bậc 2. Vì thế có
thể nói hiện nay, hầu hết các giảng viên về du lịch của trường đều có chứng chỉ Sư phạm. Tuy nhiên, dù có chứng chỉ sư phạm nhưng để một giảng viên có thể truyền tải hiệu quả kiến thức nghề nghiệp tới HSSV đòi hỏi người giảng viên đó phải có các tố chất khác như: năng khiếu, kỹ năng của mỗi người. Nhiều giảng viên của trường có cách thức truyền đạt sinh động, hấp dẫn, phương pháp đa dạng khiến cho HSSV rất hào hứng, lôi cuốn sư tập trung vào bài giảng. Ngược lại có một số giảng viên dù có trình độ chuyên môn cao nhưng phương pháp truyền đạt không hiệu quả khiến cho bài giảng không đạt như mong muốn. Từ năm 2009 trở lại đây, năm nào Nhà trường cũng khuyến khích các giảng viên áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy, sử dụng máy tính, công nghệ…
+ Về công tác học tập và nghiên cứu khoa học: Sự quan tâm của Nhà trường đến hoạt động này chỉ là động viên, khuyến khích về mặt tinh thần, chất lượng các công trình nghiên cứu không cao. Công tác chăm lo đến thu nhập và chất lượng cuộc sống của cán bộ giáo viên được thực hiện chưa tốt làm ảnh hưởng đến tinh thần và động lực phấn đấu, từ đó làm giảm chất lượng đào tạo.
* Đối với đội ngũ cán bộ quản lý: Đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên viên các phòng ban có trình độ đạo đức và phẩm chất nhân văn; có bằng cấp đạt chuẩn theo đúng quy định của nhà nước. Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ nguồn đã được nhà trường thực hiện. Nhà trường luôn có kế hoạch theo dõi, bồi dưỡng, huấn luyện và thực hiện đúng theo quy hoạch đề ra. Đội ngũ cán bộ quản lý của Nhà trường có bằng cấp đúng chuyên môn quản lý, có trình độ nhận thức lý luận chính trị, phần lớn có trình độ đại học trở lên; 100% cán bộ quản lý đạt chuẩn về ngoại ngữ và tin học. Tổng kết công tác quản lý hàng năm cho thấy nhiều người đạt danh hiệu: Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở, chiến sỹ thi đua cấp bộ và nhiều bằng khen khác… Công tác luân chuyển và bổ nhiệm cán bộ được thực hiện theo đúng quy định về quy hoạch cán bộ, đảm bảo tính dân chủ, công khai. Công tác này đựơc thực hiện từ việc lấy ý kiến đảng uỷ, phòng tổ chức cho đến vệc bỏ phiếu tín nhiệm. Qua đó, thấy được sự thống nhất, đoàn kết cao từ cán bộ viên chức trong trường. Một số cán bộ quản lý có năng lực còn hạn chế, các quyết định đưa ra không có tính mới và sáng tạo mà phụ thuộc vào các quyết định tiền lệ trước. Trong công tác bổ nhiệm
đôi khi còn mang tính chủ quan, cục bộ hoặc dựa vào các mối quan hệ có trước cho nên chưa đánh giá cao được những người có năng lực thực tế và chưa có cơ hội cho những người này tham gia vào bộ máy quản lý. Do đó, hiệu quả của các quyết định không cao, chất lượng công tác quản lý chưa tạo ra được sự đột phá và chưa có tính sáng tạo nhiều. Chính điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý từ đó ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của Nhà trường
Công tác tổ chức và quản lý Đây là yếu tố được xem là quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
- Để phục vụ cho công tác tổ chức và quản lý, Nhà trường có hệ thống các văn bản làm cơ sở cho quá trình hoạt động và quản lý. Các văn bản phục vụ cho công tác tổ chức và quản lý được nhà trường xây dựng và triển khai có hiệu quả. Các văn bản đã được xây dựng và ban hành dựa trên điều kiện thực tiễn của nhà trường, địa phương và xu thế phát triển của xã hội. Hàng năm, nhà trường có các hoạt động điều chỉnh, bổ sung sửa đổi và ban hành một số văn bản mới cho phù hợp với điều kiện thực tế và mục tiêu của nhà trường. Các văn bản do Nhà trường ban hành gồm: Quy định chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị trong nhà trường; Nội quy, quy chế làm việc; Quy định về công tác thi đua, khen thưởng dành cho CBCNV; Quy chế chi tiêu nội bộ; Quy định về đánh giá kết quả rèn luyện và khen thưởng HSSV; Quy định về học tập nâng cao trình độ, nghiên cứu khoa học; Quy chế thanh tra, kiểm tra trong đào tạo. Các văn bản do Nhà trường ban hành về cơ bản đã đảm bảo tính thống nhất về nội dung, đảm bảo tính công khai và kịp thời; đảm bảo cho tổ chức và các bộ phận phối hợp và hoạt động nhịp nhàng có hiệu quả. Tuy nhiên, việc xây dựng các văn bản, kế hoạch đôi khi còn mang tính thủ công, ngắn hạn và không chuyên nghiệp; không có được các dự báo mang tính dài hạn. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến chất lượng các hoạt động, khó khăn cho công tác quản lý và quy trách nhiệm. Do tình hình tuyển sinh trong những năm gần đây có nhiều khó khăn nên quy chế chi tiêu nội bộ của Nhà trường được xây dựng lại theo hướng thắt chặt, điều chỉnh thu nhập của CBCNV có xu hướng giảm (vì giảm số tiết thừa, giảm làm thêm giờ…). Điều này, ảnh hưởng đến tâm lý và chất lượng cuộc sống của CBCNV, làm giảm động lực và ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. - Công
tác thanh tra và kiểm tra của Nhà trường: Thực tế cho thấy, công tác kiểm tra giữ vai trò quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo. Công tác kiểm tra là cơ sở để đánh giá các công tác khác như: Công tác quy hoạch, sắp xếp, phân công, giao nhiệm vụ nhằm thực hiện tốt mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo. Công tác thanh kiểm tra được thực hiện định kỳ, thường xuyên trên tất cả các mặt công tác nhằm mục tiêu công khai, minh bạch hoá các hoạt động; thực hiện đúng theo quy chế đề ra, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Nhà trường thực hiện kiểm tra, giám sát thường xuyên ở tất cả các bộ phận, các phòng ban và có sự phối hợp giữa các cấp, các đoàn thể dưới sự chỉ đạo của đảng uỷ, ban giám hiệu nhà trường nhằm đánh giá việc thực hiện kế hoạch chung cũng như kế hoạch cụ thể, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Sự tham gia của các quần chúng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong công tác kiểm tra, đánh giá. Bên cạnh những tiến bộ và thành tích đã đạt được, công tác trên còn tồn tại những mặt hạn chế như: Thời điểm tiến hành kiểm tra có lúc chưa phù hợp, phương pháp khi kiểm tra chưa khách quan nên thông tin nhận được có độ chính xác chưa cao. Vì vậy, quá trình kiểm tra chưa thực sự mang lại hiệu quả, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng các hoạt động.
- Công tác tổ chức dạy và học: Trường Cao đẳng Du lịch Vũng Tàu với hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành luôn xác định rõ mục tiêu trong đào tạo là phải gắn với nhu cầu của người học, yêu cầu của người sử dụng lao động và xã hội.Với phương châm là thực hiện đa dạng hóa các ngành nghề đào tạo, đa dạng hóa các loại hình đào tạo để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học và người sử dụng lao động. Hàng năm nhà trường tổ chức thi tuyển và xét tuyển theo đúng quy định của Bộ Giáo dục và đào tạo, thực hiện đa dạng hoá các hình thức tuyển sinh nhằm đáp ứng mục tiêu của nhà trường đề ra. Công tác lập kế hoạch đào tạo được xây dựng ngay từ đầu mỗi học kỳ. Phòng đào tạo kết hợp với các khoa, tổ phối hợp trong công tác xây dựng kế hoạch và thông qua phó hiệu trưởng phụ trách đào tạo phê duyệt. Quá trình thực hiện kế hoạch được giám sát, kiểm tra chặt chẽ của các phòng ban chức năng như: Phòng đào tạo, phòng quản lý HSSV, phòng thanh tra khảo thí và kiểm định chất lượng, phòng tổ chức hành chính, ban giám hiệu nhằm đảm bảo
đúng tiến độ và chất lượng đề ra. Đầu mỗi năm học nhà trường tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, các buổi hội thảo chuyên đề, tổ chức học tập quy chế, quyết định mới trong công tác đào tạo đối với cán bộ giáo viên về cách tính điểm, cách đánh giá điểm rèn luyện đối với học sinh, sinh viên. Cuối các khoá học của HSSV, phòng Tổ chức và phòng Công tác HSSV của Nhà trường được giao nhiệm vụ lấy ý kiến đánh giá phản hồi của học sinh, sinh viên và cán bộ giáo viên về kết quả và chất lượng công tác, chất lượng giảng dạy. Tuy nhiên, công tác lập kế hoạch trong đào tạo còn nhiều hạn chế vì: Kế hoạch xây dựng rất ngắn hạn và chưa ổn định. Phòng đào tạo của nhà trường phải xây dựng kế hoạch nhiều đợt trong năm học, chưa xây dựng được kế hoạch cả năm và toàn khoá học. Đồng thời việc xây dựng kế hoạch còn chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban, các khoa và các tổ nên hiện tượng trùng lặp, thiếu sót vẫn thường xuyên xảy ra; quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác đào tạo. Về công tác tuyển sinh: Nhà trường thực hiện công tác tuyển sinh theo đúng quy chế. Hàng năm, nhà trường giao cho phòng đào tạo xây dựng kế hoạch tuyển sinh cả năm và kế hoạch chi tiết cho từng giai đoạn. Trên cơ sở đó cụ thể hoá bằng các chương trình hành động như tổ chức chiêu sinh rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng như tờ rơi thông báo tuyển sinh, thông qua băng rôn, các kênh truyền tin như website của nhà trường, đài truyền thanh của thôn, xã hoặc một số kênh truyền hình chọn lọc. Nhìn chung công tác tuyển sinh hàng năm của nhà trường luôn hoàn thành chỉ tiêu được giao. Các thông tin về nhà trường, về các ngành nghề đào tạo được nhiều thí sinh và phụ huynh biết đến. Nhà trường thực hiện đa dạng hoá các hình thức tuyển sinh như: Tổ chức thi tuyển theo kỳ thi chung của các trường cao đẳng trong cả nước, xét tuyển từ kết quả thi đại học, cao đẳng, xét tuyển dựa trên kết quả học tập lớp 12 ở THPT, kết quả học tập lớp 9 ở THCS. Kết quả xét tuyển được kiểm tra, giám sát chặt chẽ, đảm bảo tính nghiêm túc, công bằng và không để xảy ra sai sót một cách đáng tiếc nào. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền và quảng bá về nhà trường, về việc tuyển sinh đôi khi còn chưa được kịp thời và đầu tư ít kinh phí, việc thực hiện còn mang tính chất thủ công. Việc sử dụng và quản lý con người trong quá trình tổ chức thực hiện còn chưa thực sự hiệu quả, làm giảm hiệu
quả trong công tác tuyển sinh. Nhà trường cũng tổ chức đa dạng hoá các phương thức tổ chức đào tạo như đào tạo tại chỗ, liên kết với các cơ sở trong tỉnh và ngoài tỉnh để đào tạo, đào tạo tập trung, đào tạo ngắn hạn, đào tạo dành cho các đối tượng vừa học vừa làm, đào tạo theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp. Thời gian cho các lớp, các hệ cũng rất đa dạng, có thể trong tuần, cuối tuần, buổi tối…nhằm đáp ứng nhu cầu tối đa cho người học. Nhà trường cũng rất chủ động thiết lập mối quan hệ thân thiết với các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu việc làm của HSSV sau khi ra trường; thường xuyên tổ chức các đợt kiến tập, thực tập cho HSSV trong quá trình học tập. Qua đó giúp các em mở rộng kiến thức, gắn kiến thức được học tại trường với kiến thức thực tế, thực hiện tốt phương châm học đi đôi với hành, đào tạo gắn liền với nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, công tác tuyên truyền thu thập thông tin phản hồi về chất lượng và các phương thức đào tạo từ các đối tượng liên quan không được quan tâm và đánh giá cao hoặc chưa được đầu tư đúng mức cho nên không nắm bắt được kịp thời nhu cầu của người học, phương thức đào tạo có thể không phù hợp với một số đối tượng nhất định. Về công tác kiểm tra và tổ chức thi: Với quan điểm coi trọng chất lượng đào tạo, nhà trường luôn coi trọng đến vấn đề đánh giá đúng và chính xác kết quả học tập của HSSV. Có quy chế thi và kiểm tra đánh giá phù hợp với đặc thù của từng môn học, đối tượng người học khác nhau nhằm đánh giá người học một cách chính xác và toàn diện. Cùng với sự phát triển của nhà trường, công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập cũng có sự thay đổi, nhìn chung là đảm bảo đúng quy chế; có nhiều phương pháp đánh giá và đảm bảo đúng tiến độ. Bên cạnh đó, ở một số khâu cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Mặc dù nhà trường đã thành lập phòng thanh tra khảo thí, xong công tác ra đề thi, bảo mật đề thi, in sao đề thi, tổ chức thi vẫn được giao cho các khoa chịu trách nhiệm nên việc quản lý ở khâu này chưa thực sự được chặt chẽ. Công tác kiểm tra và tổ chức thi trong thời gian gần đây được nhà trường buông lỏng, làm ảnh hưởng đến tư duy của người học và ở các kỳ học tiếp theo. Công tác chấm thi, khớp phách, công bố kết quả thi còn chậm, không kịp thời để động viên tinh thần học tập của HSSV làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo. Về công tác nghiên cứu khoa học: Công tác nghiên cứu khoa học được nhà trường đặc
biệt quan tâm, đây được coi là cơ sở để đánh giá thi đua cả năm đối với cán bộ, giáo viên. Mỗi năm, nhà trường có khoảng 10 đến 20 đề tài sáng kiến khoa học được Hội đồng khoa học nhà trường nghiệm thu và đạt kết quả cao. Một số đề tài đã được tiếp tục nghiên cứu phát triển lên cấp cao hơn và trở thành đề tài nghiên cứu cấp Bộ. Đầu mỗi năm học, nhà trường đã lập kế hoạch để CBCNV của nhà trường đăng ký tên đề tài, Hội đồng khoa học nhà trường duyệt tên đề tài, kế hoạch thực hiện, thời gian và kinh phí… Tuy nhiên, chất lượng nhiều đề tài, sáng kiến cải tiến còn thấp và tính ứng dụng thực tế không cao, nhiều tác giả chưa thực sự đầu tư cho công tác nghiên cứu, nhiều người tham gia theo phong trào và coi đó là điều kiện để mình có đủ điều kiện đạt tiêu chí thi đua. Đặc biệt, sự quan tâm, tạo điều kiện của nhà trường cho nghiên cứu khoa học còn ít; sự hỗ trợ về kinh phí, thời gian và các điều kiện khác cho nghiên cứu còn thấp; công tác thẩm định, đánh giá nhiều khi chưa khoa học, nhiều người trong Hội đồng khoa học nhà trường chỉ có chuyên môn sâu về lĩnh vực này mà không có chuyên môn sâu về lĩnh vực khác, tính công bằng khách quan trong đánh giá chưa cao. Do đó, ảnh hưởng đến phong trào nghiên cứu cũng như chất lượng các đề tài nghiên cứu. Về quan hệ hợp tác quốc tế: Nhà trường luôn có chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trong công tác đào tạo nhằm học hỏi kinh nghiệm và tổ chức quản lý, tranh thủ các nguồn vốn đầu tư và công nghệ, cử các cán bộ giáo viên tham gia đến thăm, làm việc tại một số cơ sở nước ngoài để giao lưu, học hỏi kinh nghiệm. Các dịch vụ bổ sung cho người học: Nhà trường luôn có những kênh thông tin để cung cấp cho người học hiểu biết về các ngành nghề đào tạo, lợi ích và cơ hội của người học sau khi ra trường để giúp các em có định hướng đúng đắn, lựa chọn hợp lý và có động lực rõ ràng ngay từ những ngày đầu nhập học ….
Cơ sở vật chất và trang thiết bị đào tạo
- Nhà trường có khuôn viên sạch sẽ, hệ thống cây xanh, khu giảng đường học lý thuyết, các xưởng thực hành nghề, dãy KTX 2 tầng đang xây dựng, cung cấp khoảng 300 chỗ ở cho HSSV nội trú, nhà học giáo dục thể chất, thư viện, phòng nghe, phòng học thực hành kế toán máy, phòng học thực hành tin học, phòng học thực hành các chuyên ngành…tất cả đều tương xứng với quy mô đào tạo. Các khu
học thực hành theo chuyên ngành được bố trí chuyên biệt có đầy đủ trang thiết bị, tiện nghi và dụng cụ học tập theo chuyên ngành phù hợp với đặc thù của từng chuyên ngành. Các phòng học lý thuyết hầu như được trang bị hệ thống máy chiếu. Ngoài ra các phòng học đều được thiết kế đảm bảo về tiêu chuẩn cách âm cũng như các tiêu chuẩn về phòng cháy, an toàn sử dụng…
- Thư viện: Nhà trường có hệ thống thư viện với nhiều đầu sách chuyên môn và các giáo trình, tài liệu tham khảo…phục vụ cho quá trình học tập và nghiên cứu. Hàng năm, các tài liệu này được bổ sung và đầu tư mới để đảm bảo nhu cầu của người học và tính cập nhật thông tin. Bên cạnh các tài liệu cứng, nhà trường còn trang bị hệ thống máy tính nối mạng tại thư viện để giúp việc tra cứu thông tin được nhanh hơn. Tuy nhiên, theo quan sát và đánh giá chung thì nhiều HSSV không quan tâm đến kho tri thức tại thư viện. Thậm chí, trong suốt quá trình học tập tại trường nhiều sinh viên không biết đến thư viện của nhà trường. Vì vậy, có thể thấy hiệu quả của quá trình đầu tư thư viện không cao. Trong công tác quản lý và tuyên truyền của Nhà trường chưa tạo được văn hóa đọc, văn hoá nghiên cứu để HSSV thấy được vai trò của kho tri thức thư viện đối với bản thân trong học tập tại trường và trong cuộc sống. Nhà trường chưa có được các buổi tuyên truyền, giới thiệu các loại sách, tài liệu học tập tại thư viện cho HSSV. Trong thời gian tới cần có các giải pháp phù hợp để thay đổi thực trạng trên, góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào tạo.