Theo lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin: “Quản lý xã hội một cách khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ hay những hệ thống con người khác nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan nhằm đảm bảo cho hệ thống hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra”. [6, tr 267]
Về nội dung, thuật ngữ “Quản lý” có nhiều cách hiểu không hẳn như nhau
[25].
Quản lý là các hoạt động thực tiễn nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc
qua những nỗ lực của người khác.
- Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những cộng sự khác cùng chung một tổ chức.
- Quản lý là một hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt mục đích của nhóm.
- Quản lý là sự có trách nhiệm về một cái gì đó.
Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống: Quản lý là phương thức tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên hệ thống bao gồm hệ các quy tắc ràng buộc về hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp trong hệ thống nhằm duy trì tính trội hợp lý của cơ cấu và đưa hệ sớm đạt mục tiêu.
Những định nghĩa trên khác nhau về cách diễn đạt nhưng đều gặp nhau ở những nội dung cơ bản, quản lý phải bao gồm các yếu tố (các điều kiện) sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp đổi mới hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng cho học sinh các trường trung học phổ thông thành phố Bắc Kạn - 1
- Giải pháp đổi mới hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng cho học sinh các trường trung học phổ thông thành phố Bắc Kạn - 2
- Quản Lý, Quản Lý Giáo Dục, Quản Lý Nhà Trường
- Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Chính Trị Tư Tưởng Cho Học Sinh
- Mục Tiêu Giáo Dục Chính Trị Tư Tưởng Cho Học Sinh Thpt
- Mục Tiêu Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Chính Trị Tư Tưởng Cho Học Sinh Thpt
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
+ Phải có ít nhất một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và ít nhất là một đối tượng bị quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể quản lý tạo ra và các khách thể khác chịu tác động gián tiếp của chủ thể quản lý. Tác động có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần.
+ Phải có mục tiêu và một quỹ đạo đặt ra cho cả đối tượng và chủ thể, mục tiêu này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động.
+ Chủ thể có thể là một người, nhiều người, còn đối tượng có thể là một hoặc nhiều người (trong tổ chức xã hội).
Bất luận một tổ chức có mục đích gì, cơ cấu và quy mô ra sao đều cần phải có sự quản lý và có người quản lý để tổ chức hoạt động và đạt mục đích của mình.
Hiện nay quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra.
Như vậy có thể khái quát: “Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đề ra. Sự tác động của quản lý phải bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn luôn hồ hởi, phấn khởi đem hết năng lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho xã hội.”
Quản lý là môn khoa học sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học tự nhiên và xã hội nhân văn khác như: toán học, thống kê, kinh tế, tâm lý và xã hội học… nó còn là một “nghệ thuật” đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế cao.
Dựa vào những điểm chung từ những cách hiểu nêu trên, chúng tôi cho rằng: “Quản lý là những tác động có mục đích có kế hoạch của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm chỉ huy điều hành các đối tượng quản lý để thực hiện các mục tiêu quản lý đề ra”.
Quản lý gắn liền với hoạt động có mục đích có kế hoạch và có quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý, khách thể quản lý cả hai yếu tố này đều hướng tới mục tiêu chung đó là mục tiêu của tổ chức.
* Quản lý giáo dục
Hoạt động giáo dục cũng như khái niệm quản lý, quản lý giáo dục có nhiều cách định nghĩa khác nhau.
- Xét ở cấp vĩ mô: Quản lý giáo dục là những tác động có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả mắt xích của hệ thống giáo dục (từ Bộ tới Trường, từ Trung ương đến địa phương) nhằm đạt tới mục tiêu, để nâng cao chất lượng hiệu quả của giáo dục.
- Xét ở cấp vi mô: Quản lý giáo dục là những tác động có mục đích có kế hoạch, có hệ thống của các lãnh đạo nhà trường tới cán bộ giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường, nhằm thực hiện có chất lượng hiệu quả mục tiêu giáo dục đào tạo trong nhà trường.
Theo chúng tôi: Quản lý giáo dục trong nhà trường là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà quản lý đến tất cả các đối tượng, khách thể quản lý nhằm huy động một cách tối đa nguồn lực giáo dục trong và ngoài nhà trường để thực hiện mục tiêu giáo dục đề ra.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục,mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [17, tr 61,71,72].
Việc quản lý nhà trường phổ thông (có thể mở rộng ra là việc quản lý giáo dục nói chung): Là quản lý hoạt động dạy và học tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục. [17, tr71]
Xét về mặt lý luận và thực tiễn quản lý nhà trường bao gồm:
+ Tác động của chủ thể quản lý bên trong và bên ngoài, đây chính là những tác động quản lý của các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy và học tập, giáo dục của nhà trường bao gồm các chỉ dẫn, quyết định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhằm định hướng cho sự phát triển của nhà trường, hỗ trợ và tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó.
+ Quản lý nhà trường do chủ thể quản lý bên trong bao gồm:Quản lý giáo viên, quản lý học sinh, quản lý quá trình dạy và học của giáo viên và học sinh, quản lý cơ sở vật chất, quản lý tài chính, quản lý các hoạt động giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức pháp luật cho học sinh trong nhà trường.
1.2.2. Chính trị, tư tưởng
* Khái niệm chính trị
Chính trị là một lĩnh vực đặc biệt, đa dạng và phức tạp liên quan đến lợi ích của các giai cấp, các lực lượng xã hội. Vì vậy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm “chính trị”.
Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, chính trị là vấn đề giai cấp, quan hệ giai cấp, đấu tranh giai cấp và đỉnh cao của cuộc đấu tranh này là đấu tranh giành quyền lực cho một giai cấp nhất định. Bước ngoặt của đấu tranh chính trị là sự bùng nổ cách mạng xã hội giành lấy chính quyền nhà nước, lật đổ chế độ cũ và thiết lập chế độ mới. Chính trị là vấn đề quyền lực, biểu hiện trực tiếp là quyền lực nhà nước và tính hiện thực của quyền lực lại là lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế.
V.I. Lênin cho rằng: Chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà vấn đề cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của nhà nước, xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Bất kì vấn đề chính trị nào cũng có liên quan đến quyền lợi của các giai cấp và nhà nước. Chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng, bao gồm hệ tư tưởng chính trị, nhà nước, các đảng phái xã hội. Khi xã hội phân chia thành các giai cấp dựa trên cơ sở kinh tế, đồng thời chính trị có vị trí độc lập và có tác động to lớn đối với kinh tế. Chính trị ở trong kinh tế và ngược lại, kinh tế thâm nhập vào chính trị. Việc hình thành một quan điểm chính trị đúng về lĩnh vực kinh tế là điều kiện giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ kinh tế. Chính trị còn là biểu hiện tập trung của nền văn hóa, của hoạt động sáng tạo, của sự nghiệp giải phóng. Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, nói tới chính trị thì trước hết là bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, hiệu lực quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Kế thừa và phát triển những luận điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về khái
niệm chính trị, Hồ Chí Minh đã bàn đến những vấn đề chính trị trong thực tiễn như đường lối cách mạng Việt Nam; những vấn đề xây dựng Đảng; giành giữ chính quyền; xây dựng chế độ mới; xây dựng và thực thi quyền làm chủ của nhân dân; vấn đề cán bộ, đạo đức cách mạng.
Theo từ điển tiếng Việt, chính trị là “những tổ chức điều khiển bộ máy nhà nước trong nội bộ một nước về quan hệ chính thức giữa các nước với nhau”,“những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng, một tập đoàn xã hội nhằm giành lấy hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước”, “Những hiểu biết về mục đích, đường lối, nhiệm vụ đấu tranh của một giai cấp, một chính Đảng nhằm giành lấy hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước” [31, tr.163].
Như vậy, chính trị xét về bản chất là hoạt động có tính xã hội của con người xoay quanh vấn đề giành, giữ, tổ chức thực thi quyền lực nhà nước nhằm thỏa mãn lợi ích chung. Nói cách khác, chính trị là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, các tổ chức chính trị xã hội của nhà nước nhằm hoạch định và thực hiện đường lối chính trị nhằm bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ quyền thống trị và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Đối với nước ta, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, quyền lực của nhà nước chỉ là biểu hiện tập trung quyền lực của nhân dân, lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp lãnh đạo thông qua Đảng cộng sản thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động. Bởi vậy, chính trị là sự tham gia của nhân dân vào việc hoạch định và thực hiện chính sách của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị, phát triển kinh tế thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng tinh thần cho xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
* Khái niệm tư tưởng
Chủ nghĩa Mác- Lênin khi xây dựng học thuyết, truyền bá học thuyết của mình, tổ chức đảng, giai cấp vô sản đã giải quyết một loạt vấn đề lý luận của công tác tư tưởng như hệ tư tưởng, công tác tuyên truyền cổ động. Trước hết Chủ nghĩa Mác- Lênin đã đề cập đến vấn đề hệ tư tưởng.
Theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, hệ tư tưởng là hệ thống những quan điểm và tư tưởng về chính trị, pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo, pháp luật, triết học. Hệ tư tưởng cũng là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, xét cho cùng phản ánh những quan hệ kinh tế - Cuộc đấu tranh tư tưởng ứng với cuộc đấu tranh lợi ích, giai cấp trong xã hội có giai cấp đối kháng. Hệ tư tưởng có thể phản ánh đúng hoặc phản ánh sai hiện thực, có thể là một tư tưởng khoa học hoặc không khoa học. Lợi ích của giai cấp phản động nuôi dưỡng hệ tư tưởng sai lầm, lợi ích của giai cấp tiến bộ, cách mạng góp phần hình thành hệ tư tưởng khoa học.V. Lênin coi tư tưởng là hình thức cao của nhận thức, là mục tiêu, chương trình, kế hoạch nhằm tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới khách quan.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng khoa học chân chính thể hiện lợi ích sống còn của giai cấp công nhân, của đại đa số nhân dân lao động và cả loài người khát khao hòa bình, tự do, tiến bộ.
Từ sự phân tích trên có thể đi đến kết luận về khái niệm tư tưởng như sau: Tư tưởng là sự phản ánh khái quát hiện thực khách quan trong ý thức con người, biểu hiện những lợi ích của con người, giai cấp về xã hội. Đó là một dạng của ý thức xã hội, phán ánh tồn tại xã hội dưới dạng khái quát, phản ánh lợi ích của một con người, một tập đoàn người, một giai cấp, một dân tộc trong một thời đại nhất định.
* Công tác chính trị, tư tưởng
Ý thức chính trị với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước. Nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia. Đặc trưng của ý thức chính trị
thể hiện trực tiếp và tập trung nhất lợi ích giai cấp.
Hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp phản ánh trực tiếp tập trung lợi ích của giai cấp ấy. Hệ tư tưởng chính trị được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của các chính đảng, của các giai cấp khác nhau cũng như trong pháp luật, chính sách nhà nước, công cụ của giai cấp thống trị. Với đặc trưng như vậy, tác động của ý thức chính trị phụ thuộc vào tính chất tiến bộ của giai cấp mang hệ tư tưởng đó.
Đảng ta, ngay từ khi ra đời đã xác định lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, sau này bổ sung thêm tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ tư tưởng chính trị của Đảng. Sự kiên trì hệ tư tưởng chính trị Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là bài học đầu tiên đẫn đến thắng lợi trong thời kì đổi mới: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Công tác chính trị, tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của Đảng cộng sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị đời sống tinh thần của xã hội, động viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Từ sự phân tích trên, có thể thấy công tác chính trị, tư tưởng ở nước ta hiện nay là những hoạt động cụ thể để tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh thiếu nhi và nhân dân về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chương trình, công tác của cơ sở, của địa phương để tạo ra sự nhất trí, quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, pháp luật và nhiệm vụ ở cơ sở.
1.2.3. Hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng
* Hoạt động giáo dục
Giáo dục (theo nghĩa rộng) là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch, thông qua các hoạt động và quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
Giáo dục (theo nghĩa hẹp) Là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể
, là quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội, thuộc các lĩnh vực đạo đức, lao động, tư tưởng chính trị, thẩm mỹ, vệ sinh.
* Hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng
Giáo dục chính trị, tư tưởng là quá trình truyền bá và tiếp thu những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong cán bộ đảng viên, đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân.
Xét về bản chất, hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng là quá trình tác động có mục đích, có hệ thống nhằm giác ngộ, nâng cao nhận thức cho cán bộ đảng viên và quần chúng, hướng họ tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Mục đích cơ bản của giáo dục chính trị, tư tưởng là xây dựng cho những người cộng sản và nhân dân lao động thế giới quan khoa học, phương pháp luận đúng đắn, nhân sinh quan cộng sản, giúp họ khắc phục những tư tưởng lạc hậu những tàn tích của thế giới quan cũ, nâng cao trình độ chính trị, nhiệt tình cách mạng, tinh thần tự giác và tính tích cực trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Bởi vậy, giáo dục chính trị, tư tưởng là sự truyền đạt đối với con người trên lĩnh vực tình cảm, tư tưởng nhằm xác lập ở họ bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng, tuân thủ pháp luật, giác ngộ lý tưởng và lòng hăng say trong công việc, nhiệm vụ được phân công. Trong đó trước hết và quan trọng hàng đầu phải