Những Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng, Chuyên Môn Hóa Hoạt Động Xử Lý Nợ Xấu


từ phía các đối tượng thi hành (TCTD, tổ chức có hoạt động Ngân hàng) khi dự thảo các văn bản quản lý, cơ chế, chính sách phải tiếp cận với thông lệ quốc tế.

- Dư luận nói chung và các thành viên của thị trường cũng đề nghị phát ngôn về chính sách tiền tệ thì chỉ nên được thực hiện bởi Ngân hàng Nhà nước – cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng – đồng thời là thành viên của Chính phủ. Tránh việc các cơ quan khác phát ngôn thay Ngân hàng Nhà nước, gây ra những thông tin trái chiều, làm nhiễu thị trường.

Cân nhắc độ trễ của chính sách thắt chặt tiền tệ:

- Thông điệp mà Chính phủ đưa ra cho năm 2012 là ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát (CPI tăng không quá 10%). Mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước năm 2012 cũng được xác định: phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng khoảng 6.5%. Như vậy, có thể thấy tín hiệu thắt chặt tiền tệ đã được đưa ra rõ ràng ngay từ đầu năm.

- Theo thông điệp từ Ngân hàng Nhà nước thì về chủ trương, năm 2012 vốn Ngân hàng chủ yếu cho phát triển nông nghiệp – nông thôn. Có thông tin cho biết Ngân hàng Nhà nước cũng cảnh báo rủi ro trong cho vay bất động sản và không khuyến khích tăng trưởng tín dụng ở khu vực này.

- Tuy nhiên có ý kiến cho rằng độ trễ chính sách bao giờ cũng từ sáu đến chín tháng. Vì vậy, thực hiện chính sách kiểm soát lạm phát (đồng nghĩa thắt chặt tiền tệ) ở mức độ nào cũng phải cân nhắc những ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm tới.

Xóa bỏ tình trạng “hai giá”:

- Tình trạng “hai giá” trong lãi suất và tỷ giá đã khiến các tổ chức tín dụng và khách hàng mệt mỏi, thị trường tiền tệ không minh bạch. Các Ngân hàng thương mại đều mong muốn đưa lãi suất và tỷ giá về một giá trong thời gian sớm nhất có thể.

- Đã có những ý kiến cho rằng, giải pháp lãi suất nên được đưa ra là từng thời kỳ (có thể từng tháng hoặc quý), các thành viên hiệp hội Ngân hàng bàn bạc (thương lượng) để đồng thuận một mức lãi suất trần huy động VND phù hợp với


cung – cầu vốn và chỉ số lạm phát, rồi VNBA đề nghị Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ giám sát thực hiện đồng thuận.

- Về tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ điều hành tỷ giá linh hoạt theo thị trường, chính sách tỷ giá gắn với diễn biến lãi suất VND và lãi suất ngoại tệ. Ý tứ cho thấy có thể trong năm 2013 Ngân hàng Nhà nước sẽ có những điều chỉnh (về biên độ?) để kéo gần hơn sự chênh lệch tỷ giá giữa hai thị trường chính thức và phi chính thức.

Dứt khoát khi dùng biện pháp hành chính:

- Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 đã cho Ngân hàng Nhà nước nhiều quyền hạn hơn trong việc ra các quyết định hành chính. Ví dụ, Điều 12 cho phép trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.

- Xem ra các Ngân hàng thương mại cũng không thấy khó khăn lắm với điều này, nhiều lãnh đạo Ngân hàng thương mại cho rằng về dài hạn phải dùng biện pháp thị trường để điều chỉnh thị trường nhưng trong ngắn hạn, các biện pháp hành chính vẫn rất cần thiết để ổn định thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, nếu đã dùng biện pháp hành chính thì phải dứt khoát, không nửa vời.

- Vì vậy, để tồn tại và phát triển bền vững, VIB Vũng Tàu cần phải đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh tìm mọi biện pháp đáp ứng yêu cầu thị trường cũng như đảm bảo được hiệu quả sản xuất kinh doanh của Ngân hàng được nâng cao.

3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI THIỆN HOẠT ĐỘNG TÍN DUNG TẠI VIB VŨNG TÀU

3.2.1 Những giải pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng, chuyên môn hóa hoạt động xử lý nợ xấu

Năng lực quản trị rủi ro của NHTM là khả năng tự vệ của NHTM trong hoạt động kinh doanh, phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Năng lực quản trị rủi ro được đánh giá thông qua các hoạt động phòng ngừa và xử lý rủi ro, số lượng, tính chất và mức độ thiệt hại do rủi


ro gây nên. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng của NHTM góp phần nâng cao năng lực quản trị rủi ro nhằm hạn chế thấp nhất những thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra. Dưới đây là đề xuất những giải pháp cụ thể đối với VIB:

Thứ nhất, về định hướng tín dụng và chính sách tín dụng:

- VIB cần thường xuyên rà soát, hoàn thiện chính sách quản lý tín dụng, quy trình giám sát tín dụng và xây dựng cơ chế quản lý các khoản nợ xấu để đưa ra những dự báo chính xác và kịp thời phục vụ công tác quản trị rủi ro tín dụng. Đồng thời VIB cũng đang cân nhắc và xem xét lại cơ cấu tài sản nợ có của VIB để đảm bảo tính hợp lý trong cơ cấu huy động vốn nhằm giảm chi phí giá vốn tín dụng xuống mức thấp nhất.

- Các quy trình nghiệp vụ cần được rà soát thường xuyên, hoàn thiện hóa, tránh quá cứng nhắc và có lỗ hổng. Phòng Chính sách và Chế độ Tín dụng và các Phòng Phát triển và Quản lý sản phẩm phải được đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Các Phòng chuyên trách này thường xuyên ghi nhận các phản hồi và đánh giá, rà soát các quy chế, quy trình, chính sách, sản phẩm đã ban hành để trình cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung hoặc thay thế nhằm đảm bảo sự đồng bộ, chặt chẽ, phù hợp với năng lực quản trị và điều kiện hoạt động của VIB trong từng thời kỳ, phòng ngừa và hạn chế đến mức thấp nhất khả năng xảy ra rủi ro.

- Thống nhất nhận thức và nhất quán trong việc thực hiện chính sách tín dụng với tầm nhìn dài hạn không chỉ giới hạn trong đội ngũ cán bộ quản lý cao cấp mà cần triển khai trên toàn hệ thống một cách thường xuyên.

- Tăng cường chính sách hợp tác với các Ngân hàng, tổ chức tín dụng khác nhằm hạn chế cạnh tranh thông qua các chính sách cho vay đồng tài trợ, cho vay ủy thác, cho vay hợp vốn, hợp tác trong việc thông tin về tín dụng và nhân sự,… nhằm hạn chế sự cạnh tranh, tăng năng lực thẩm định, khả năng giám sát vốn vay và có thể chia nhỏ rủi ro khi có sự cố xảy ra.

Thứ hai, về mạng lưới hoạt động và phát triển sản phẩm:

- VIB cần quy hoạch, phát triển mạng lưới các Trung tâm kinh doanh chuyên phục vụ các khách hàng doanh nghiệp một cách hợp lý và tập trung được nguồn lực;


Bên cạnh đó cần đầu tư phát triển mở rộng mạng lưới Ngân hàng bán lẻ (chủ yếu là các Phòng Giao dịch, Quỹ Tiết kiệm, Điểm Giao dịch) chuyên phục vụ khách hàng cá nhân tại những địa bàn có tiềm năng phát triển kinh tế, như các khu du lịch, khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, các điểm tập trung đông dân cư. Việc phát triển mở rộng mạng lưới phù hợp không chỉ góp phần nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mở rộng cơ sở khách hàng, gia tăng sức mạnh cạnh tranh, hiệu quả hoạt động cho VIB mà còn góp phần thực hiện chính sách tín dụng phân tán, chia nhỏ rủi ro nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro.

- VIB cũng cần đầu tư cho việc phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng, kết hợp nhiều sản phẩm dịch vụ với sản phẩm tín dụng để hình thành các gói sản phẩm dành cho một khách hàng hoặc nhóm khách hàng, nhằm vừa nâng cao khả năng cạnh tranh vừa đáp ứng tốt nhất khả năng tiếp cận, mở rộng khách hàng.

Thứ ba, xây dựng cơ chế quản lý và chuyên môn hóa các hoạt động xủ lý các khoản nợ xấu:

- VIB cần xây dựng bộ máy nhằm phát hiện và cảnh báo sớm các khoản nợ có vấn đề và các quy trình xử lý các khoản nợ có nguy cơ chuyển thành nợ quá hạn, nợ xấu nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất khi xảy ra rủi ro.

- VIB cần có quy định về việc nhận TSBĐ thay thế cho nghĩa vụ trả nợ (gán nợ) đối với những trường hợp việc xử lý nợ kéo dài.

- Xây dựng cơ chế xử lý nợ xấu từ nguồn dự phòng rủi ro theo các quy định của pháp luật đối với các khoản nợ xấu tồn đọng quá lâu.

- Ủy quyền cho các đơn vị kinh doanh quyết định áp dụng các biện pháp kiên quyết, đúng pháp luật để thu hồi nợ vay, như việc quyết định xử lý tài sản thế chấp, cầm cố hoặc khởi kiện.

- Thực hiện việc phân loại khoản vay, trên cơ sở phân loại nợ theo quy định tại quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và quyết định 18/2007/QĐ-NHNN của Thống Đốc NHNN đảm bảo khoa học trên cơ sở căn cứ vào các tiêu thức như: nguyên nhân phát sinh nợ, khả năng thu hồi nợ, tài sản đảm bảo nợ vay, đối tượng khách


hàng, … từ đó đưa ra các biện pháp cụ thể trong việc ngăn ngừa và xử lý nợ xấu.

- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát sau cho vay. Mỗi phòng cần cử ra 01 người chuyên trách theo rõi tổng hợp và đề xuất biện pháp thu hồi nợ quá hạn.

- Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với Ngân hàng, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho Ngân hàng. Từ đó có nhiều tiêu chí phản ánh rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại như: tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu…và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Nâng cao hiệu quả việc sử dụng quỹ dự trữ dự phòng rủi ro trong hoạt động xử lý nợ xấu là vừa đảm bảo Ngân hàng phải trích lập dự phòng theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước nhưng cũng không nên khuôn mẫu và cứng nhắc làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng.

- Tăng cường hoạt động phối hợp với các cơ quan ban ngành tại địa phương như: Trung tâm đấu giá, toà án, thi hành án trong quá trình xử lý nợ xấu bằng việc thiết lập một bộ phận chuyên trách xử lý các món nợ xấu. Bộ phận chuyên trách này cần phải thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với các cơ quan ban ngành tại địa phương (tránh để khi xảy ra vụ việc mới thiết lập quan hệ) để trong trường hợp phát sinh nợ xấu sẽ được sự hỗ trợ kịp thời từ các cơ quan, ban ngành này. Tiếp tục tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong thủ tục phát mãi, xử lý tài sản là đất đai, bất động sản, khâu thi hành án, hoàn chỉnh hồ sơ pháp lý của tài sản trước khi khởi kiện…Bên cạnh đó cần phải có sự hỗ trợ từ hội sở đề nghị UBND Tỉnh hỗ trợ Chi nhánh xử lý các khoản nợ xấu.

Thứ tư, nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin tín dụng:

- Trong hoạt động tín dụng, thông tin là yếu tố quan trọng giúp cho Ngân hàng ra quyết định có đầu tư hay không. Để thẩm định cấp tín dụng, cán bộ tín dụng không thể chỉ dựa vào các thông tin do khách hàng cung cấp mà cần phải thu thập, thẩm định, xử lý thông tin liên quan đến phương án, dự án từ nhiều nguồn khác nhau. Việc tổ chức lưu trữ, thu thập các thông tin về khách hàng, thông tin thị


trường, thông tin công nghệ, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng,… dựa trên việc sử dụng các phần mềm tin học sẽ góp phần giúp việc đánh giá, thẩm định chính xác, nâng cao tốc độ xử lý và chất lượng của quyết định cho vay và đầu tư.

- VIB cần tăng cường công tác thông tin giúp phòng ngừa, ngăn chặn và hạn chế rủi ro. Hoạt động kinh doanh Ngân hàng rất nhạy cảm trước các biến động về chính trị, kinh tế, xã hội. Thông tin kinh tế, đặc biệt là thông tin phòng ngừa rủi ro cần được cập nhật và khai thác triệt để trong quản trị Ngân hàng. Có như vậy mới giảm thiểu được những rủi ro khách quan và chủ quan do thiếu thông tin hoặc không khai thác triệt để các thông tin phục vụ cho công tác quản trị rủi ro của Ngân hàng.

- VIB cần tiếp tục nâng cấp hệ thống quản trị thông tin và các hệ thống IT để hỗ trợ công tác quản trị rủi ro, xây dựng hệ thống thông tin cảnh báo sớm các dấu hiệu, các khoản vay có nguy cơ rủi ro, xác định được những lĩnh vực, những ngành có tiềm ẩn rủi ro cao.

- Hệ thống công nghệ thông tin và vận hành cần được bảo dưỡng và cập nhật thường xuyên. Những chức năng cơ bản của những phần mềm ứng dụng cho quản trị rủi ro ít nhất cần bao gồm (i) Nhập dữ liệu được phân cấp (dữ liệu tổn thất, các chỉ số rủi ro, các phản hồi để đánh giá rủi ro), (ii) Tập trung đánh giá trên mọi phạm vi kinh doanh, xác định của quy định điều chỉnh và vốn đầu tư, sự tập hợp và sự so sánh các kết quả mọi thành phần rủi ro hoạt động báo cáo cho Hội đồng quản trị

(iii) Tập trung và/hoặc phân cấp quản lý.

Thứ năm, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ:

- VIB cần đẩy mạnh công tác kiểm soát nội bộ với mục tiêu quan trọng xây dựng được hệ thống tìm kiếm những xu hướng tiềm ẩn tiêu cực, bất ổn và thiếu sót trong hoạt động của Ngân hàng để đưa ra biện pháp chấn chỉnh.

- Xây dựng kế hoạch phù hợp và thực hiện nghiêm ngặt các quy trình kiểm tra nghiệp vụ nhằm phát hiện những sai sót có khả năng dẫn đến rủi ro, có biện pháp chấn chỉnh kịp thời.


- Từ kết quả kiểm tra nghiệp vụ tại các đơn vị kinh doanh cần tổng kết để rút kinh nghiệm, quán triệt trong toàn hệ thống nhằm góp phần nâng cao năng lực quản trị rủi ro của Ngân hàng.

- VIB cần thực hiện chính sách thưởng, phạt nghiêm minh đối với các cá nhân và đơn vị. Có các hình thức khuyến khích những, khen thưởng đối với các đơn vị, cá nhân làm tốt và xử lý những đơn vị, cá nhân để xảy ra rủi ro do yếu tố chủ quan làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh và uy tín của Ngân hàng tùy theo mức độ vi phạm. Có thưởng, phạt nghiêm minh mới thúc đẩy, nâng cao ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh của mỗi CBNV nghiệp vụ, từng đơn vị, hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Thứ sáu, quản trị rủi ro tín dụng theo xếp hạng tín dụng nội bộ:

- Thường xuyên kiểm tra và hoàn thiện hệ thống đánh giá và xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm phản ánh hiện trạng rủi ro thực tế và dự báo danh mục rủi ro trong tương lai.

- Xây dựng kế hoạch và hoàn thiện các vấn đề về kỹ thuật nhằm đưa công tác quản lý rủi ro tín dụng theo chuẩn Basel II thông qua chiết xuất tiêu chí vở nợ mang tính đặc thù khách hàng cụ thể, bổ sung cấu phần đo lường tổng thể để đối chiếu với các hệ thống xếp hạng được thế giới công nhận như S&P, Moody’s. Thường xuyên kiểm tra hệ thống và đối chiếu với các hệ thống chuẩn bên ngoài.

3.2.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

- Hiệu quả sử dụng vốn của VIB Vũng Tàu còn bị hạn chế do dư nợ tín dụng thấp, chưa tương xứng với quy mô nguồn vốn huy động, phần lớn vốn được gửi tại hội sở với lãi suất thấp. Tỷ lệ giữa tổng dư nợ cho vay trên nguồn vốn huy động tại VIB Vũng Tàu bình quân là 41%, điều này cho thấy tỷ trọng dư nợ tín dụng còn thấp hơn nhiều so với tổng nguồn vốn huy động được. Theo kế hoạch của VIB giao tỷ lệ trung bình toàn hệ thống năm 2014 phải đạt 60% tổng dư nợ. Để đạt được kế hoạch tăng trưởng dư nợ trong năm 2014, VIB Vũng Tàu cần đẩy mạnh công tác cho vay, tích cực tìm kiếm nguồn khách hàng có nhu cầu tại địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, việc tăng trưởng tín dụng phải đi kèm với các biện pháp quản lý, hạn chế rủi ro vì việc tăng trưởng tín dụng quá nóng sẽ dẫn tới những rủi ro rất lớn.


- Chi nhánh cũng cần phải quy định dư nợ tín dụng bắt buộc đến từng cán bộ khách hàng. Hiện tại, chi nhánh đã có các phòng khách hàng doanh nghịêp và khách hàng cá nhân do đó dễ quản lý và triển khai các sản phẩm theo từng khối khách hàng. Việc giao chỉ tiêu phù hợp sẽ làm tăng thêm động lực làm việc của cán bộ khách hàng, vì dư nợ tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của họ hàng tháng do đó buộc cán bộ khách hàng luôn phải phục vụ tốt khách hàng hiện tại để duy trì dư nợ cũng như tích cực tìm kiếm khách hàng mới. Từ đó, chi nhánh có thể tăng dư nợ đồng thời tăng hiệu quả sử dụng vốn.

3.2.3 Đa dạng hóa danh mục cho vay nhằm giảm thiểu rủi ro

Các sản phẩm tín dụng của chi nhánh còn chưa đa dạng và phong phú, các sản phẩm như: cho vay phục vụ cho lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp, cho vay du học, bao thanh toán, thấu chi, tài trợ hàng lưu kho, tài trợ thương mại…. chưa thực sự được chú trọng và phát triển. Chính yếu tố này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của chi nhánh với các Ngân hàng khác trong địa bàn tỉnh, do đó, chi nhánh cần phải đa dạng hoá các sản phẩm cho vay nhằm giảm thiểu rủi ro. Bên cạnh đó, VIB Vũng Tàu vẫn tiếp tục đẩy mạnh các lĩnh vực chủ chốt hiện tại, một số sản phẩm cán bộ quản lý khách hàng đề xuất trong năm 2013 như sau:

Đvt: Tỷ đồng



Năm 2013

Đế xuất năm 2014

Dư nợ cho vay Bất động sản

96

125

Dư nợ cho vay tiêu dùng

138

180

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Giải pháp cải thiện hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam - Chi nhánh Vũng Tàu - 10

- Hiện nay lĩnh vực cho vay bất động sản (bao gồm cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản, xây dựng chung cư, xây dựng cơ sở hạ tầng…) trên địa bàn tỉnh BRVT ngày càng phát triển. Trong năm 2013, có 4 dự án xây dựng trung cư cao cấp được triển khai xây dựng, nhu cầu về căn hộ cao cấp phù hợp với đối tượng là các khách hàng ở khu vực TPHCM và các tỉnh lân cận muốn sở hữu căn chung cư để cuối tuần xuống Vũng Tàu nghỉ ngơi và du lịch do đó nhu cầu về nhà ở chung cư và căn hộ cao cấp phát triển mạnh. Cán bộ quản lý khách hàng đề xuất năm 2014 là 125 tỷ đồng (tăng khoảng 30% tổng dư nợ), tăng 29 tỷ đồng so với năm 2013. Sở

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 11/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí