Chi trả cho các dịch vụ môi trường (payment for environmental services – PES), là một cơ chế kinh tế khuyến khích bảo tồn và sử dụng bền vững các dịch vụ của môi trường. Cơ chế này cho phép những người tạo và duy trì các dịch vụ sinh thái được nhận những khoản chi trả từ những người sử dụng dịch vụ. Điều này phù hợp với nguyên tắc Người hưởng lợi phải trả tiền (Beneficial Pay Principle) của Công ước Rio-1992. PES là cơ chế đảm bảo sự công bằng xã hội và lợi ích cho các bên tham gia, đồng thời tạo ra nguồn tài chính bền vững cho bảo tồn các giá trị sinh thái [37].
Bảng 1.7: Các loại cơ chế chi trả cho dịch vụ môi trường
Cơ chế Đặc điểm
Chi trả cho bảo vệ rừng đầu nguồn (watershed protection)
Chi trả cho cảnh quan môi trường (landscape beauty)
Chi trả cho bải tồn đa dạng sinh học
(biodiversity)
Chi trả cho hấp thụ cacbon (carbon sequenstration)
Nguồn: [37]
Các khu rừng đầu nguồn cung cấp rất nhiều dịch vụ cho xã hội bao gồm kiểm soát xói mòn đất, duy trì chất lượng nước và điều chỉnh dòng chảy của nước. Những giá trị này có thể thu được thông qua nhiều cơ chế khác nhau như thanh toán trực tiếp hay các loại phí sử dụng nước.
Du khách tới thăm những cảnh quan thiên nhiên đẹp/những khu bảo tồn, vườn quốc gia lưu trữ các giá trị cảnh quan và đa dạng sinh học. Những giá trị này có thể thu được thông qua phí vào cửa hoặc trả tiền cho quyền tiếp cận.
Người dân sẵn lòng chi trả cho việc duy trì và bảo tồn đa dạng
sinh học của thiên nhiên.
Rừng có một chức năng sinh thái rất quan trọng là hấp thụ cacbon. Nghị định thư Kyoto hạn chế lượng phát thải cacbon tạo ra thị trường cacbon thông qua Cơ chế Phát triển sạch (CDM).
Như vậy, về cơ bản, nếu có những người cung cấp dịch vụ môi trường (người bán) và các nhóm cần dịch vụ (người mua) thì có thể thiết lập một cơ chế chi trả giữa hai bên. Tuy nhiên, việc thiết lập và vận hành các cơ chế PES có thể là một thách thức vì phải xây dựng hành lang pháp lý và cơ cấu tổ chức đủ mạnh nhằm đảm bảo sự chấp hành và phân chia lợi ích một cách công bằng. Đồng thời, để đề ra các mức
chi trả hợp lý thì cần phải đánh giá được giá trị kinh tế của các dịch vụ sinh thái
một cách thỏa đáng.
Mặc dù PES là một khái niệm mới, được đưa vào tư duy và thực tiễn bảo tồn gần một thập kỷ trở lại đây nhưng đã nhanh chóng trở nên phổ biến trên thế giới. Các nước phát triển ở Mỹ La Tinh đã sử dụng các mô hình PES sớm nhất. Ở châu Âu, Chính phủ một số quốc gia cũng đã quan tâm đầu tư và thực hiện nhiều chương trình, mô hình PES. Ở châu Úc, Australia đã luật pháp hoá quyền phát thải cacbon từ năm 1998, cho phép các nhà đầu tư đăng ký quyền sở hữu hấp thụ cacbon của rừng. PES cũng đã được phát triển và thực hiện thí điểm tại châu Á như Indonesia, Philippines, Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal và Việt Nam. Đặc biệt là tại Indonesia và Philippines có rất nhiều các sáng kiến về PES liên quan đến dịch vụ sinh thái của rừng đầu nguồn [37].
Thứ tư, thông tin về giá trị kinh tế góp phần xây dựng và hoàn thiện cơ sở
dữ liệu phục vụ quản lý ĐNN
Xây dựng cơ sở dữ liệu về ĐNN là một trong những giải pháp quản lý quan trọng được áp dụng phổ biến trên thế giới với mục tiêu là giám sát sự biến động của ĐNN, cung cấp thông tin nền cho các quản lý để hỗ trợ quá trình ra quyết định cũng như là cơ sở để giải quyết các tranh chấp hoặc đánh giá thiệt hại ĐNN khi xảy ra các tác động từ bên ngoài. Chính vì những ý nghĩa quan trọng trên mà nhiều quốc gia, khu vực đã xây dựng những cơ sở dữ liệu rất chi tiết về ĐNN để phục vụ quản lý. Ví dụ tại Australia toàn bộ 208 khu ĐNN có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế đều có cơ sở dữ liệu rất chi tiết và được phổ biến miễn phí trên mạng. Cơ sở dữ liệu ĐNN này được xây dựng trên nền của hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong đó kết hợp các dữ liệu không gian với dữ liệu thuộc tính rất tiện lợi để tra cứu, cập nhật và sử dụng. Nhìn chung, trong các hệ thống cơ sở dữ liệu về ĐNN, bên cạnh những thông tin về địa lý, sinh thái, xã hội thì những thông tin liên quan đến giá trị kinh tế có vai trò rất quan trọng và đòi hỏi phải được cập nhật thường xuyên vì có ý nghĩa quản lý cao.
Một ứng dụng quan trọng nữa của thông tin giá trị kinh tế trong quản lý ĐNN là các thông tin này góp phần bổ sung và hoàn thiện tài khoản quốc gia (SNA) trong đó có tài khoản môi trường (Green account). Hiện nay, nhiều quốc gia đã áp dụng hệ thống hạch toán kinh tế có bao gồm cả việc hạch toán sự gia tăng hay suy giảm trong tài sản môi trường của quốc gia. Cách hạch toán này phản ánh đầy đủ và chính xác hơn qui mô của sự tăng trưởng kinh tế, từ đó giúp cho các nhà quản lý vĩ mô hoạch định và điều chỉnh các thuyết sách quản lý kinh tế. Theo cách tiếp cận này thì giá trị kinh tế toàn phần và từng phần của ĐNN phải được tính toán và lồng ghép trong hệ thống tài khoản môi trường, đồng thời sự gia tăng hay suy giảm giá trị của ĐNN cũng phải được giám sát chặt chẽ. Xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu ĐNN chi tiết sẽ hỗ trợ rất lớn cho tiếp cận và thực hiện quá trình quản lý trên.
Thứ năm, thông tin về giá trị kinh tế góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng và xã hội về bảo tồn và quản lý bền vững ĐNN
Nâng cao nhận thức để dẫn tới sự thay đổi thái độ và hành vi của các đối tượng quản lý và sử dụng ĐNN là một cách tiếp cận quản lý mang tính truyền thống đơn giản nhưng có hiệu quả cao, được nhiều quốc gia và tổ chức sử dụng. Về cơ bản, nhận thức của cộng đồng và xã hội được cải thiện thông quan các chương trình giáo dục và truyền thông môi trường. Thông qua đó, cộng đồng xã hội được truyền đạt những kiến thức và kỹ năng gìn giữ, bảo tồn, sử dụng ĐNN theo cách thức bền vững cho cả thế hệ hiện tại và tương lai.
Thực tế cho thấy sự thay đổi hành vi trong quản lý ĐNN theo hướng bền vững chỉ có thế đạt được khi đối tượng truyền thông có những hiểu biết và thái độ mạnh mẽ, sâu sắc về vai trò, giá trị của ĐNN cũng như lợi ích của việc bảo vệ ĐNN. Các thông tin về giá trị kinh tế hỗ trợ rất nhiều trong việc định hình thái độ quản lý và sử dụng ĐNN bởi những thông tin này thường rất gần gũi, dễ nhớ, dễ suy ngẫm và sử dụng với nhiều nhóm đối tượng quản lý ĐNN khác nhau. Từ đó, thông tin về giá trị kinh tế có thể là một chất liệu quan trọng cần phải được lồng ghép trong các chương trình giáo dục và truyền thông ĐNN.
1.5. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Đánh giá giá trị kinh tế của ĐNN là một lĩnh vực khoa học - ứng dụng có cơ sở lý thuyết và các phương pháp thực nghiệm chuyên sâu, hệ thống. Điểm mấu chốt của việc đánh giá là tìm hiểu được mối quan hệ hữu cơ giữa các chức năng sinh thái của ĐNN với những giá trị mà nó tạo ra cho hệ thống phúc lợi xã hội của con người. Tổng giá trị kinh tế của một hệ sinh thái ĐNN bao gồm giá trị sử dụng trực tiếp, giá trị sử dụng gián tiếp, giá trị lựa chọn và giá trị phi sử dụng.
Cơ sở lý thuyết của đánh giá giá trị kinh tế ĐNN là lý thuyết kinh tế học phúc lợi, trong đó việc cơ bản là đo lường sự thay đổi trong phúc lợi cá nhân khi chất lượng ĐNN thay đổi. Về thực nghiệm, các phương pháp đánh giá được chia thành các nhóm là dựa trên thị trường thực, dựa trên thị trường thay thế, dựa trên thị trường giả định và phân tích chi phí - lợi ích. Mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng và phù hợp với việc đánh giá một hay nhiều loại giá trị kinh tế của ĐNN. Việc lựa chọn các phương pháp khi sử dụng trong thực tế phải tính tới các điều kiện về tài chính, thời gian hay sự đáp ứng về kỹ thuật và nguồn dữ liệu.
Đánh giá giá trị ĐNN là một qui trình gồm nhiều bước có liên quan mật thiết với nhau. Qui trình này mang tính liên ngành, đòi hỏi sự tham gia của nhiều chuyên gia và nhóm xã hội liên quan.
Về bản chất kinh tế, sự suy giảm phân bổ không hiệu quả ĐNN được nhìn nhận như là hậu quả của sự thất bại thị trường với hai dạng tiêu biểu là ngoại ứng và thất bại trong phân định quyền tài sản. Sự thiếu hụt thông tin về giá trị kinh tế có thể gây ra những thất bại này.
Thông tin về giá trị kinh tế có rất nhiều ứng dụng trong quản lý ĐNN như: hỗ trợ việc xây dựng qui hoạch, kế hoạch sử dụng ĐNN; đề xuất các công cụ và chính sách quản lý ĐNN; xây dựng cơ chế chi trả cho dịch vụ môi trường của ĐNN; xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu ĐNN; tăng cường đầu tư xã hội cho bảo vệ ĐNN; nâng cao nhận thức của cộng đồng và xã hội về quản lý và sử dụng hiệu quả ĐNN.
CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA TÀI NGUYÊN ĐẤT
NGẬP NƯỚC TẠI CỬA SÔNG BA LẠT, TỈNH NAM ĐỊNH
2.1. TỔNG QUAN VỀ VÙNG ĐẤT NGẬP NƯỚC TẠI CỬA SÔNG BA LẠT, TỈNH NAM ĐỊNH
2.1.1. Giới thiệu chung về khu vực nghiên cứu
Như đã giới thiệu ở phần mở đầu, đối tượng nghiên cứu thực nghiệm của luận án là giá trị kinh tế tổng thể và từng phần của tài nguyên ĐNN tại vùng cửa sông Ba Lạt, tỉnh Nam Định với phạm vi nghiên cứu là toàn bộ khu vực VQG Xuân Thủy (gồm cả vùng lõi và vùng đệm) nằm ở phía Tây Nam cửa sông Ba Lạt thuộc địa phận Huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
VQG Xuân Thủy là một phần của Khu dự trữ sinh quyển ĐNN ven biển liên tỉnh châu thổ sông Hồng được UNESCO chính thức công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 02/12/2004. Đây là vùng ĐNN đầu tiên ở Việt Nam được quốc tế công nhận theo Công ước Ramsar năm 1989 và là khu Ramsar thứ 50 của thế giới.
Để quản lý hiệu quả Khu Ramsar Xuân Thuỷ, vào năm 1992, UBND huyện Giao Thủy đã thành lập Trung tâm Tài nguyên môi trường của huyện. Được sự uỷ quyền của Thủ Tướng Chính phủ, ngày 19/01/1995, Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) đã ra Quyết định số 26-LN/KH chính thức thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên ĐNN Xuân Thuỷ trực thuộc Chi cục kiểm lâm tỉnh Nam Định.
Ngày 02/01/2003, VQG Xuân Thủy được nâng cấp từ Khu bảo tồn thiên nhiên ĐNN Xuân Thủy theo quyết định số 01/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, VQG Xuân Thủy trực thuộc sự quản lý của UBND tỉnh Nam Định [49].
2.1.2. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên của khu vực nghiên cứu
Vị trí địa lý
VQG Xuân Thủy nằm ở phía Đông Nam huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, ngay tại cửa Ba Lạt là cửa chính của sông Hồng đổ ra biển. Khu vực vùng lõi của Vườn là vùng đất ngập mặn trên ba cồn cát cửa sông là Cồn Ngạn, Cồn Lu và cồn Xanh có diện tích khoảng 7.100 ha. Toàn bộ vùng đệm của Vườn có diện tích khoảng 7.300 ha nằm trên địa phận các xã Giao Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân và Giao Hải thuộc huyện Giao Thủy.
TRUNG TÂM VIỄN THÁM QUỐC
GIA
Hình 2.1: Vị trí của khu vực nghiên cứu - VQG Xuân Thủy
Nguồn: [1]
Đặc điểm địa hình
Vùng lõi của VQG Xuân Thuỷ bao gồm Bãi Trong, Cồn Ngạn, toàn bộ Cồn Lu và
Cồn Xanh, có diện tích đất nổi khi triều kiệt là 3.100 ha và đất còn ngập nước 4.000
ha. Toàn bộ khu vực cú độ cao trung bình từ 0,5 - 0,9m với địa hình thấp dần từ Bắc
xuống Nam và từ Đông sang Tây.
Bãi Trong: Chạy từ cửa Ba Lạt đến hết xã Giao Xuân với chiều dài khoảng 12 km, chiều rộng bình quân khoảng 1.500m. Phía Bắc khu Bãi Trong là đê quốc gia (đê Ngự Hàn) và phiá Nam được giới hạn bởi sông Vọp. Hầu hết diện tích khu Bãi Trong được chia ngăn thành ô thửa, hình thành các đầm nuôi tôm và khai thác thủy sản. Diện tích Bãi Trong khoảng 2.500 ha trong đó có khoảng 800 ha đất bãi bồi đã được trồng rừng ngập mặn.
Cồn Ngạn: nằm giữa sông Vọp và sông Trà có chiều dài khoảng 10 km và chiều
rộng bình quân khoảng 2.000m. Phần diện tích Cồn Ngạn (thuộc vùng đệm) đã
được ngăn thành ô thửa để nuôi trồng thuỷ sản. Phần còn lại giới hạn bởi đê Vành lược và sông Trà thuộc vùng lõi của VQG Xuân Thuỷ vẫn có rừng ngập mặn cùng với một phần đầm tôm (ở giáp sông Hồng) và một phần bãi cát pha ở cuối Cồn Ngạn đang được cộng đồng dân địa phương sử dụng để nuôi ngao. Tổng diện tích tự nhiên của Cồn Ngạn xấp xỉ 2.000 ha.
Cồn Lu: Nằm gần song song với Cồn Ngạn, có chiều dài khoảng 12km và chiều rộng bình quân khoảng 2.000m . Phía Đông và Đông nam Cồn Lu còn có một cồn cát cao (1,2m - 2,5 m) không bị ngập triều và địa hình thấp dần về phía sông Trà. Trừ cồn cát, diện tích còn lại của Cồn Lu có nước thuỷ triều lên xuống tự do, có rừng ngập mặn phát triển. Diện tích của Cồn Lu xấp xỉ 2.500 ha.
Cồn Xanh: Là bãi bồi tiếp giáp với Cồn Lu có độ cao khoảng 0,5 - 0,9m, diện tích bãi khi triều kiệt khoảng trên 200 ha.
Khu vực vùng đệm của VQG Xuân Thủy nằm trên địa phận các xã Giao Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân và Giao Hải thuộc địa phận huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định [46].
Đặc điểm đất đai
Đất đai toàn vùng cửa sông Ba Lạt được tạo thành từ nguồn sa bồi lắng của hệ thống sông Hồng. Vật chất bồi lắng bao gồm 2 loại hình chủ yếu là bùn phù sa và cát
lắng đọng (tích đọng và di động do ngoại lực trở thành giồng cát). Lớp phù sa được dòng chảy vận chuyển và bồi lắng hình thành lớp thổ nhưỡng cửa sông ven biển
được xác định bởi lớp thổ nhưỡng ven châu thổ. Lượng phù sa ở cửa Ba Lạt trung bình 1,8 gam trong 1 lít nước là cơ sở hình thành những cồn đất bồi lắng kéo dài theo hướng Tây nam. Độ pH của lớp đất khá ổn định và mức độ nhiễm mặn với mật
độ pH biến động từ 17,2-20 mg trong 100 gam đất khô lấy mẫu.
Đất bùn lỏng hay đất đã cố định giàu dinh dưỡng, thích hợp với nhiều loài cây ngập mặn (Mangrove). Thể hiện rất rõ mối quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng tương tác theo chiều hướng có lợi giữa thổ nhưỡng với quần thể rừng ngập nước, hình thành hệ sinh thái đặc trưng của vùng cửa sông ven biển.
Các loại đất cụ thể của khu vực như sau:
Vùng lõi: rộng 7.100 ha, trong đó có 3.100 ha đất nổi, 4.000 ha đất còn đang ngập nước, 948 ha đất cát và cát pha, 2.152 ha đất thịt và đất sét, 1.855ha rừng ngập mặn, 93 ha rừng phi lao.
Vùng đệm: rộng 8.000 ha trong đó 1.407 ha còn ngập nước, 6.593 ha đất nổi, đất cát pha 220 ha, đất thịt và sét 6.373 ha, đất có rừng ngập mặn 1.724 ha, 6 ha rừng phi lao [46].
Bảng 2.1: Thống kê di ện tích các loạ i đất tại VQG Xuân Thủy
Đơn vị: ha
Loạ i đất Đất ngập Đất thịt + sét Đất cá t & cá t pha Tổng số
nước thường Có
Đất
Tỉng Cã
Đất
Tỉng Cã
Đất
Tỉng
xuyên và sông RNM
lạ ch
trèng
phi lao
trèng
rõng
trèng
300 | 644 | 140 | 784 | 200 | 200 | 644 | 640 | 1284 | ||
Cồn Lu | 1200 | 1118 | 250 | 1368 | 93 | 521 | 614 | 1211 | 1971 | 3182 |
Cồn Mờ | 2500 | 134 | 134 | 2634 | 2634 | |||||
Tỉng | 4000 | 1762 | 390 | 2152 | 93 | 855 | 948 | 1855 | 5245 | 7100 |
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Pháp Phân Tích Chi Phí- Lợi Ích (Cost Benefit Analysis – Cba)
- Lựa Chọn Các Phương Pháp Để Đánh Giá Giá Trị Kinh Tế Của Đnn
- Ngoại Ứng Tích Cực Và Sự Thất Bại Thị Trường
- Đặc Điểm Kinh Tế - Xã Hội Của Khu Vực Nghiên Cứu
- Đánh Giá Các Giá Trị Sử Dụng Trực Tiếp Của Đnn
- Thống Kê Mô Tả Về Hoạt Động Nuôi Ngao Trong Mẫu Điều Tra
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
Nguồn: Qui hoạch sử dụng đất vùng bãi bồi Cồn Lu-Cồn Ngạn (2002)