Bất thị Tử Phương kiêu phú quý,1 Chung bằng Vương thị phạm trì khu. 2 Văn thanh hỉ vọng nhân tình cận,
Đầu hạt tương lưu thế vị thù.
Tự tiếu nguyên phi đề Đỗ khách, Diệc lao xa mã quá hoàng đô.
Dịch nghĩa: ĐI XE
Núi non quan ải trùng trùng, dặm đường xa vời, Chiếc xe vượt ngàn dặm với một tấm lòng thành. Chẳng phải như Tử Phương không màng phú quý, Rốt cuộc như họ Vương suốt buổi ruổi rong.
Nghe tiếng nói, vui mừng ngóng ra, thấy tình người gần gũi,
Vào đất khách, ở cùng nhau, biết mùi đời khác nhau.
Tự cười ta vốn không phải là nhà thơ họ Đỗ (Đỗ Phủ),
Mà cũng nhọc xe ngựa đi qua hoàng đô.
Có thể bạn quan tâm!
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 46
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 47
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 48
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 50
Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.
Dịch thơ:
Đường dài thăm thẳm mấy non sông, Ngàn dặm xe qua, một tấm lòng.
Chẳng phải Tử Phương khinh phú quý, Mà như Vương thị cuộc chơi rong.
Vô thành, tạm trú, mùi đời lạ,
Nghe tiếng, mừng trông, nghĩa khách đồng. Tự mỉa ta nào như lão Đỗ,
Hoàng Đô cũng nhọc ngựa xe dong.
67.答餞短送河間分府李奉瑞次韻 3
一片情雲暮色濃蕭蕭河上馬嘶風茶當杯酒詩當話香靄磁州柳陌中
ĐÁP TIỄN ĐOẢN TỐNG HÀ GIAN PHÂN PHỦ LÝ PHỤNG THUỲ THỨ VẬN
Nhất phiến tình vân mộ sắc nùng, Tiêu tiêu hà thượng mã tê phong. Trà đương bôi tửu, thi đương thoại, Hương ái Từ Châu liễu mạch trung. Dịch nghĩa:
ĐÁP TIỄN ĐOẢN TỐNG PHÂN PHỦ HÀ GIAN LÝ PHỤNG THUỲ, THEO VẦN
1 Tử Phương: tên chữ của Lục Văn Khuê (1256?~1340?), nhà văn học thời Nguyên, người Giang Âm (nay là vùng Giang Tô). Ông học rộng hiểu nhiều, kinh sử bách gia, thiên văn địa lý, kể cả môn toán số, y dược đều thông suốt. đầu năm Hàm Thuần đời Nam Tống, ông trúng kỳ thi hương, bấy giờ 18 tuổi. Nhà Tống mất, ông bèn ở ẩn phía Đông thành, người đời gọi ông là “Tường Đông tiên sinh”. Vào thời Nguyên, khôi phục lại việc thi cử, các quan ép ông đi thi, lại trúng kỳ thi hương. Triều đình nhiều lần mời ông ra làm quan nhưng ông lấy cớ tuổi già nhiều bệnh từ chối.
2 Vương thị: họ Vương, chỉ Vương Duy, nhà thơ sơn thuỵ điền viên đời Đường, ông suốt ngày cùng bạn đi ngao du sơn thuỵ.
3 Nguyên chú: 李送到漳河惠茶爲別 (Họ Lý đưa tiễn đến Chương
Hà, còn tặng trà làm quà tiễn.)
Một mảng mây tình, sắc trời chiều tối,
Trên sông tiếng ngựa lồng gió hí nghe hiu hắt. Trà thay rượu, thơ thay lời nói,
Trong đường Từ Châu liễu ngát thơm.
Dịch thơ:
Mây xanh một đoá, cảnh chiều vàng, Hiu hắt dòng sông tiếng ngựa vang. Lời nói là thơ, trà thế rượu,
Từ Châu hương ngát liễu bên đàng.
阮素如曰極詩人之致
Nguyễn Tố Như bàn: đạt đến cảnh trí cao vời của nhà thơ.
68.旅中重九
去歲重陽興未豪今秋旅況正蕭騷謾將黃菊瘳鄉思空佩茱萸辟遠勞百感有詩皆去國寸心無愧是登高不須故事還吹帽恐動霜花兩鬂毛
LỮ TRUNG TRÙNG CỬU
Khứ tuế trùng dương hứng vị hào, Kim thu lữ huống chính tiêu tao. Mạn tương hoàng cúc sưu hương tứ, Không bội thù du tị viễn lao.
Bách cảm hữu thi giai khứ quốc, Thốn tâm vô quý thị đăng cao. Bất tu cố sự hoàn xuy mạo,4
Khủng động sương hoa lưỡng mấn mao.
Dịch nghĩa:
TIẾT TRÙNG CỬU NƠI ĐẤT KHÁCH
Tiết trùng dương năm ngoái, hứng vẫn chưa cao, Mùa thu năm nay, nỗi niềm người khách đang buồn bã.
Tạm mượn rượu hoàng cúc để làm giảm bớt nỗi nhớ quê,
Cũng cứ dắt nhánh thù du để trừ nỗi mệt nhọc nơi phương xa.
Trăm nỗi niềm có thơ cũng vì xa quê hương đất nước,
Một tấc lòng không thẹn với trời đất, nên cứ lên cao.
4 Xuy mạo: Sách Tấn thư, Mạnh Gia truyện chép: “Ngày mồng chín tháng chín, vua Hoàn Ôn đãi tiệc ở núi Long Sơn, quan lại đều tụ họp, bấy giờ các quan tả lại đều mặc nhung phục, bỗng có trận gió thổi tới, thổi bay chiếc mũ của Gia xuống đất, nhưng Gia chẳng hay biết gì.” Về sau người ta dùng điển này để chỉ việc lên núi cao trong ngày trùng cửu. Bài Cửu nhật Lam Điền Thôi thị trang của Đỗ Phủ có câu “Tu tương đoản phát hoàn xuy mạo, tiếu thiến bàng nhân vị chính quan” (Thẹn mái tóc ngắn vẫn bị gió làm rơi mũ, cười cho kẻ bênh cạnh đội mũ ngay ngắn).
Chẳng cần phải có chuyện cũ, vẫn bị gió thổi rơi khăn,
Chỉ e làm hai mái tóc mai nhuốm sương hoa.
Dịch thơ:
Trùng dương năm ngoái hứng chưa mờ, Cảnh khách thu này luống xác xơ.
Hoa cúc chớ làm đau nỗi khách, Thù du trơ giắt cõi xa lơ.
Lên cao, một tấc lòng không thẹn, Rời nước, trăm niềm cảm có thơ. Chuyện cũ thôi đừng xô áo mão, Sương hoa hai mái sợ bơ phờ.
阮素如曰句法員活如珠走盤
Nguyễn Tố Như bàn: cú pháp tròn trịa, sống động, như ngọc khua trên mâm.
71.過武勝關
巖排澗曲阻經過武勝關前咽暮笳雲際雁横星數點村頭雞唱月初斜路通湖北開蛇穴山限南河制犬牙迢遞歸程心似箭遙看故國幾天涯
QUÁ VŨ THẮNG QUAN
Nham bài giản khúc trở kinh qua, Vũ Thắng quan tiền yết mộ già. Vân tế nhạn hoành tinh sổ điểm, Thôn đầu kê xướng nguyệt sơ tà. Lộ thông Hồ Bắc khai xà huyệt, Sơn hạn Nam Hà chế khuyển nha. Điều đệ quy trình tâm tự tiễn, Dao khan cố quốc kỵ thiên nhai. Dịch nghĩa:
QUA ẢI VŨ THẮNG
Núi dựng suối uốn cong, ngăn cản bước qua, Trước cửa ải Vũ Thắng tiếng tù và vang trong chiều tà.
Cánh nhạn bay ngang trong mây, vài ánh sao mọc, Tiếng gà đầu thôn gáy rộn, bóng trăng non nghiêng nghiêng.
Con đường thông qua Hồ Bắc mở ra như hang rắn, Núi non ngăn cách Nam Hà, thế tựa nanh vuốt khép lại.
Đường về vời vợi xa xôi, lòng sốt sắng như mũi tên,
Xa nhìn quê hương cách mấy chân trời.
Dịch thơ:
Suối lượn đá bày, khó bước qua, Chiều hôm biên ải rộn tù và.
Trong mây nhạn lướt, sao vừa mọc,
Đầu xóm gà kêu, nguyệt xế tà.
Hồ Bắc đường thông như ngách rắn, Nam Hà núi khép tựa kìm a.
Đường về vời vợi, lòng thêm sốt, Nước cũ, trông nhìn, biết mấy xa?
阮素如曰句法有力不在用力
Nguyễn Tố Như bàn: cú pháp tự có sức lực không phải ở việc cố dùng sức.
72.武後軍火
古來兵火屬英雄許國鎔成一點忠粉骨風炎西塞白丹心日焰越天紅煙飛臺閣凌豪氣灰鎖疆場蓋世功興滅最關卿火熾豈徒寒雨熱南宮
VŨ HẬU QUÂN HOẢ
Cổ lai binh hoả thuộc anh hùng,
Hứa quốc dung thành nhất điểm trung. Phấn cốt phong viêm tây tái bạch, Đan tâm nhật diễm Việt thiên hồng.
Yên phi đài các lăng hào khí,
Khôi toả cương trường cái thế công. Hưng diệt tối quan khanh hoả sí, Khởi đồ hàn vũ nhiệt Nam cung.
Dịch nghĩa:
NGỌN LỬA HẬU QUÂN VÕ TÁNH
Xưa nay binh lửa thuộc về anh hùng,
Báo đền ơn nước đúc thành một điểm trung. Xương trắng nát tan trong gió nóng, trắng loà ải tây,
Tấm lòng son trong ánh mặt trời đỏ rực cả trời nam.
Khói bay gác đài như hào khí ngút trời, Bụi phủ biên cương công trùm đời.
Được mất là ở ngọn lửa của anh,
Há không mưa lạnh sưởi ấm Nam cung.
Dịch thơ:
Xưa nay binh lửa gửi anh hùng,
Báo nước hun thành một điểm trung. Xương trắng gió bay, loà ải tía, Lòng son nắng rọi, rực bầu không. Khói bay đền gác, thêm hào khí,
Bụi ngập biên cương, cái thế công. Được mất cũng nhờ que lửa ấy, Mưa thu chẳng lạnh nổi Nam cung.
吳澧溪曰兵火之難惟英雄能濟之不謂英雄之志火亦能濟之武候以火成功武公以火成名火之爲用烈矣當其八角堂中慨然就義粉骨散於炎風丹
心薰乎焰日不但自全其節亦以全三軍不但全三軍王師亦因是以收全功生不滅賊寧死以報公之功爲何如哉昔張巡狥睢陽爲唐中與功臣弟一則論公爲蓋世功凌煙中想無異辭矣
Ngô Lễ Khê bình: Cái khó của binh lửa chỉ có những bậc anh hùng mới có thể làm được, chẳng khác gì nói chí anh hùng lửa cũng có thể giúp được. Võ Hầu (Gia Cát Lượng) nhờ lửa mà thành công, còn Võ Công (Võ Tánh) nhờ lửa mà thành danh. Cái dụng của lửa thật là mãnh liệt. Trong đài bát giác bấy giờ tràn đầy nghĩa khí, xương cốt nát tan bay trong gió nóng, lòng son sánh cùng vầng nhật, chẳng những ông trọn tiết mình mà còn giữ vẹn ba quân, chẳng những giữ vẹn cho ba quân, mà cũng nhờ đó vương sư mới vẹn công tích. Sống mà không diệt được giặc, thà chết để báo ơn, công của ông là như thế sao? Xưa Trương Tuần chết theo thành Tuy Dương, trở thành công thần bậc nhất của thời Đường Trung Hưng, thế thì luận rằng ông là người có công trùm đời trong khói bay ngút trời, thiết nghĩ cũng chẳng còn lời nào khác.
73.吳禮部酒
求仁自古得仁難飲義如君死亦歡盡酌醇誠酬禍亂謾將樽俎論危安一生事業杯中洌千載功名醉後完同席當年誰爲感將壇忠火對心肝
NGÔ LỄ BỘ TỬU
Cầu nhân tự cổ đắc nhân nan, Ẩm nghĩa như quân tử diệc hoan.
Tận chước thuần thành thù hoạ loạn, Mạn tương tôn trở luận nguy an.
Nhất sinh sự nghiệp bôi trung liệt, Thiên tải công danh tuý hậu hoàn. Đồng tịch đương niên thuỳ vị cảm, Tướng đàn trung hoả đối tâm can. Dịch nghĩa:
CHÉN RƯỢU CỦA LỄ BỘ HỌ NGÔ
Xưa nay cầu nhân được nhân thật khó thay, Uống nghĩa như anh dẫu chết cũng vui lòng.
Dốc hết chén rượu với lòng thành bồi đáp cái loạn hoạn nạn,
Chớ đem chén rượu mà bàn an nguy.
Sự nghiệp một đời thanh trong cùng chén rượu, Công danh ngàn năm vẹn toàn sau cơn say.
Trong năm ấy ai vì anh mà cảm thương,
Ngọn lửa trung nơi đài tướng, sánh với tấm lòng trung.
Dịch thơ:
Cầu nhân mà được, hiếm xưa nay, Uống nghĩa anh vui, chết sá gì.
Dốc hết lòng thành đền hoạ loạn, Đừng đem chén rượu luận an nguy. Một đời sự nghiệp thanh trong chén, Ngàn thuở công danh vẹn giấc say. Năm ấy ai người thương tiếc đó, Lửa trung đàn tướng với tâm này.
阮素如曰忠臣終事更無別語
Nguyễn Tố Như bàn: Bậc tôi trung đến cuối đời vẫn không có lời khác.
吳澧溪曰孤城就陷有亡命而尋君有假降而謀賊總之不害爲忠而公之見則異於是天子以城委將軍與公城存俱存城亡俱亡將軍既以死誓公豈獨生僥倖全軀恐無面於天子從害致命即有辭於將軍所以一生事業冷于杯中千載功名完于醉後酒香既烈火焰亦紅一對忠臣古今難得孔曰成仁孟曰取義非斯人之徒而誰與得仁飲義之論確乎其不易矣
Ngô Lễ Khê bàn: Thành cô bị hãm, dẫu mất mạng cũng nghĩ đến vua, có thể giả hàng để dụ giặc, tóm lại không hại thì cũng cho là trung, nhưng kiến văn của ông khác, thế nên thiên tử đem thành uỵ thác cho tướng quân với ông, (hai ông) cùng còn mất với thành, tướng quân dùng cái chết để tỏ lòng, ông há đâu tham sống để toàn thân, thế thì còn mặt mũi nào mà nhìn thiên tử, theo hại bỏ mạng, liền từ biệt tướng quân, cho nên sự nghiệp một đời lạnh lẽo trong ly rượu, công danh ngàn thuở, hoàn thành sau cơn say. Rượu đã thơm mà lửa đỏ cũng hồng, quả là một đôi trung thần xưa nay khó được. Khổng Tử nói: “thành bậc nhân”, còn Mạnh Tử nói: “giữ nghĩa”, nếu chẳng phải là những người ấy thì là ai? Bàn việc “được nhân uống nghĩa”, rõ ràng chuyện ấy không dễ.
74.長派候髮
肯人零落換容顏松柏應同節操看不爲燋頭依北闕寧教蓬鬢整南冠知君回首求長易笑彼吹毛見短難比美當時應可鑑爭來千古一奇觀
TRƯỜNG PHÁI HẦU PHÁT
Khẳng nhân linh lạc hoán dung nhan, Tùng bách ưng đồng tiết tháo khan. Bất vị tiêu đầu y bắc khuyết,
Ninh giao bồng mấn chỉnh nam quan.
Tri quân hồi thủ cầu trường dị, Tiếu bỉ xuy mao kiến đoản nan. Bỉ mỷ đương thời ưng khả giám, Tranh lai thiên cổ nhất kỳ quan. Dịch nghĩa:
MÁI TÓC CỦA TRƯỜNG PHÁI HẦU
Người chịu trôi nổi để đối lấy dung nhan, Tùng bách hẳn như tiết tháo của ông.
Chẳng vì cháy rát mái đầu, nương nơi bắc khuyết, Thà chịu tóc bạc phơ còn chỉnh sửa áo mão phương nam,
Biết ông quay đầu, xin tóc dài dễ,
Cười cho người kia thổi tóc khó thấy ngắn, Bấy giờ so vẻ đẹp chắc có thể xem,
Ngàn xưa nay, tranh nhau đến xem kỳ quan số một.
阮素如曰一髮一詩皆可千古
Nguyễn Tố Như bàn: Cả mái tóc và cả thơ ca đều có thể lưu thiên cổ.
吳澧溪曰欲成仁者必殺身身且不惜何愛於髮長派候非故爲是以求名也國破君奔忠臣泣血所恃者此心之未忘則尚庶幾其圖報之有日若薙髮必至於改裝改裝必至於受官其外者變則其心亦變心變則是終於苟安而無復長慮矣仁人之心誠有不忽故寧幽於囚老於竄千磨百折以存此髮存此髮所以存此心幸而生還亦不傷父母之遺禮不幸而死猶得以自別於北方之鬼忠孝兩盡此候之用心良苦處而未有一言及之者公與侯不同地不同事而獨尚其志嘉其節詩中字字榮於華袞計公之作此詩當在侯之生前及侯之既沒又蒙
國恩稠疊生有獎死有恤得此於君相而豈徒哉其有不如侯者能不愧於此髮羨侯之忠而不能術之者能不愧於此詩
Ngô Lễ Khê bàn: Kẻ muốn thành nhân ắt phải xả thân, thân đã không tiếc thì tiếc gì mái tóc? Trường Phái hầu chẳng phải vì lý do đó để cầu danh vậy. Nước mất vua xuất bôn, trung thần khóc rỏ máu theo hầu, tấm lòng ấy vẫn chưa quên thì chuộng gì mấy thứ ấy để báo đền. Nếu có ngày mái tóc phải đến nỗi thay đổi, mà thay đổi ắt nhận được chức quan, vẻ ngoài đã đổi thì lòng cũng đổi, lòng đổi thì cuối cùng tạm an mà không lo nghĩ nữa. Lòng của người nhân thành thật không thể qua loa được, thà chịu giam nơi ngục tù tăm tối, già yếu nơi xó chuột, chịu trăm ngàn giày vò để giữ mái tóc ấy. Sở dĩ giữ mái tóc ấy là để giữ tấm lòng, nếu may mắn mà sống vẫn không làm tổn hại đến điều lễ của cha mẹ, như không may mà chết đi vẫn được làm ma đất bắc. Hai chữ hiếu trung đều toàn vẹn, cái dụng tâm của ông thật khổ sở như thế mà chưa một lời nói đến. Ông và hầu
tuy không cùng nơi cùng việc mà riêng chuộng cái chí cái tiết của hầu. Mỗi chữ trong thơ đều đẹp đẽ bày tỏ việc làm của ông. Bài thơ này của ông là kể khi hầu còn sống cả đến khi hầu mất, lại đội ơn nước thấm nhuần, sống thì được tiếng khen, mất thì đau buồn, được như vậy ở vua quan, há phải là không không? Kẻ không được như hầu có thể không lấy làm thẹn cho mái tóc, mà ngưỡng mộ lòng trung của hầu, còn người không thể thuật lại điều ấy thì có thể không thẹn với bài thơ này hay sao?
75.哭先墳 1風水依然在乾坤晴復晴有天乘福履無日答生成草洒歸來淚花含去別情幸逢今祭掃命筆記心誠
KHỐC TIÊN PHẦN
Phong thuỵ y nhiên tại, Càn khôn tình phục tình. Hữu thiên thừa phúc lý, Vô nhật đáp sinh thành. Thảo sái quy lai lệ,
Hoa hàm khứ biệt tình. Hạnh phùng kim tế tảo, Mệnh bút ký tâm thành. Dịch nghĩa:
KHÓC MỘ CHA MẸ
Gió sông vẫn còn đây,
Đất trời quang tạnh lại thêm quang tạnh. Có ngày nối được gót cha,
Mà không ngày đền đáp ơn sinh thành của mẹ. Cỏ cây chan chứa giọt lệ ngày trở về,
Hoa ngậm tình li biệt lúc đi. May gặp ngày quét mộ cúng tế,
Bèn lấy bút viết vài dòng để tỏ tấm lòng thành.
1 Nguyên chú: 甲子季夏月赴廣義府省雙親墓哭題于後頭瓶風 (Tháng 6 năm Giáp Tý (1804), tôi đến phủ Quảng Ngãi thăm mộ của song thân, khóc đề thơ lên bình phong phía sau mộ).
PHỤ LỤC 4
HÌNH ẢNH TƯ LIỆU
Bìa Cấn Trai thi tập, ký hiệu A.3139 Bìa Cấn Trai thi tập, ký hiệu A.1392
Bìa Cấn Trai thi tập, ký hiệu A.780 Bìa Gia Định tam gia thi,
trong Cấn Trai thi tập, ký hiệu A.1392
Bìa Hoa Nguyên thi thảo, ký hiệu A.779 Bìa Thập Anh thi tập, ký hiệu A.779
Một trang trong Thập Anh thi tập, Một trang của Cấn Trai thi tập,
ký hiệu A.779 ký hiệu A.3139
Trang mục lục của Cấn Trai thi tập, Một trang của Hoa Nguyên thi thảo,
ký hiệu A.1392 ký hiệu A.779
Một trang trong bài tựa Gia Định tam gia thi tự, Một trang Cấn Trai thi tập,
ký hiệu A.1392 ký hiệu A.780
Khu mộ của Trịnh Hoài Đức (phải) và phu nhân (trái) tại phường Trung Dũng, TP. Biên Hoà
Bia mộ của Trịnh Hoài Đức (phải) và phu nhân (trái) tại phường Trung Dũng, TP. Biên Hoà