Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 46


Thỉnh an chỉ có trát thư không.


6.豬山塘晚泊 岸掛殘紅隱約明沿流十里水波平桅分樹影歸鴉散燈照沙堆宿鷺驚燠氣漸開光使節時煙半合遶州城一聲號砲千岩寂驚入豬山塘口兵

TRƯ SƠN ĐƯỜNG VÃN BẠC

Ngạn quải tàn hồng ẩn ước minh, Diên lưu thập lý thuỵ ba bình.

Chi phân thụ ảnh quy nha tán, Đăng chiếu sa đôi túc lộ kinh. Úc khí tạm khai quang sứ tiết,

Tình yên bán hợp nhiễu châu thành. Nhất thanh hiệu pháo thiên nham tịch, Kinh nhập Trư Sơn đường khẩu binh. Dịch nghĩa:

ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở BẾN TRƯ SƠN

Bờ núi treo mặt trời đỏ le lói những tia nắng cuối ngày,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.

Dòng nước êm trôi suốt mười dặm không có sóng trào.

Mái chèo khua bóng cây như tan ra khiến bầy quạ kinh hoảng,

Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 46

Ánh đèn chiếu trên bãi cát bầy cò sợ lố nhố lên. Hơi nóng tạm xua tan, làm quang rạng cờ sứ, Khói mây tụ nửa vời, vương vít trên thành quách. Một tiếng pháo hiệu nổ lên, ngàn ngọn núi vắng lặng,

Làm kinh động đoàn quân vào giữa gò Trư Sơn.

Dịch thơ:

Non treo bóng xế nắng vàng giăng, Mười dặm sông xuôi sóng nước bằng. Chèo rẽ bóng cây bầy quạ hoảng, Nến soi đồi cát lũ cò băng.

Khói thanh vương vấn, châu thành quyện, Hơi nóng xua tàn, cờ sứ căng.

Pháo hiệu vừa khai, ngàn núi vắng, Trư Sơn cửa bến rộn đoàn quân.

阮素如曰隨筆直寫勁健無匹

Nguyễn Tố Như bình: Ý chảy theo bút, cứng rắn mà không tục.


7.花山塘記見 遙望花塘樹色移舟浮崖下晚風吹巍峨祠宇懸旌旆

歷落村墟傍竹籬筆架高低山八畫文瀾蕩漾水催詩櫓聲搖曳傳空谷驚起潭龍欲化機

HOA SƠN ĐƯỜNG KÝ KIẾN

Dao vọng Hoa Đường thụ sắc di, Chu phù nhai hạ vãn phong xuy. Nguy nga tự vũ huyền tinh bái, Lịch lạc thôn khư bạng trúc li.

Bút giá cao đê sơn nhập hoạ, Văn lan đãng dạng thuỵ thôi thi.

Lỗ thanh dao duệ truyền không cốc, Kinh khởi đàm long dục hoá ki.

Dịch nghĩa:

GHI LẠI NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY Ở BẾN HOA SƠN

Xa trông Hoa Đường sắc cây như chuyển động, Dưới vách núi con thuyền trôi trong gió chiều hây hây.

Miếu mạo nguy nga rợp đầy cờ xí,

Xóm làng lác đác tre trúc đan thành rào giậu. Giá bút cao thấp lô nhô, núi non vào tranh vẽ, Làn sóng lăn tăn, con nước giục làm thơ.

Tiếng mái chèo khua vang cả núi vắng,

Làm cho lũ rồng nơi đầm sâu cũng kinh hoảng muốn bay lên.

Dịch thơ:

Hoa Đường xa ngắm sắc cây lơ, Dưới núi thuyền trôi gió tối xô. Miếu mạo nguy nga cờ trướng rũ, Xóm thôn xơ xác trúc tre phờ.

Lô nhô giá bút, non vào hoạ, Dằng dặc làn văn, nước giục thơ. E tiếng chèo khua vang núi vắng, Làm kinh rồng ẩn dưới khe mờ.

吳澧溪曰入畫即是此景催詩即是此句

Ngô Lễ Khê bình: Vào hoạ ấy là cảnh này, giục thơ tức là câu này.


9.贈黃西太平府正堂綜理邊務王撫棠燠然文物滿華程

千里葵輸咫尺輕紫塞煙消旌旆影黃堂風惹管絃聲未將重驛邀新寵已把台光達遠情樽爼足敷邊閫外鴻名大振太平城


TẶNG QUẢNG TÂY THÁI BÌNH PHỦ CHÍNH ĐƯỜNG TỔNG LÝ BIÊN VỤ VƯƠNG PHỦ ĐƯỜNG

Öc nhiên văn vật mãn hoa trình, Thiên lý quỳ du chỉ xích khinh. Tử tái1 yên tiêu tinh bái ảnh,

Hoàng đường2 phong nhạ quản huyền thanh. Vị tương trùng dịch yêu tân sủng,

Dĩ bả đài quang đạt viễn tình. Tôn trở túc phô biên khổn ngoại,

Hồng danh đại chấn Thái Bình thành.

Dịch nghĩa:

TẶNG VƯƠNG PHỦ ĐƯỜNG, TỔNG LÝ BIÊN VỤ CHÍNH ĐƯỜNG PHỦ THÁI BÌNH, TỈNH QUẢNG TÂY

Đường đi sứ ngập tràn cảnh văn minh, Ngàn dặm đường, xe sứ qua thật nhẹ nhàng. Ải bắc khói tan, lộ bóng cờ xí,

Nơi công đường của quan thái thú, gió lộng tiếng sáo đàn.

Chẳng mong lấy việc đi sứ triều cống của tôi để mong được quý mến,

Lại nhờ vào thư từ, mà đạt được mối tình xa xôi. Chén rượu bát canh đủ tỏ lòng nơi ngoài biên ải, Tiếng tăm của anh vang dội khắp thành Thái Bình. Dịch thơ:

Văn minh rực rỡ ngập đường hoa, Ngàn dặm xe quỳ nhẹ bước qua. Ải bắc mây tan, cờ xí rộn,

Nhà vàng gió lộng, sáo ca hoà. Nào đem việc sứ mong ơn mới, Đành lấy tờ thư tỏ nỗi xa.

Chén rượu giãi tình ngoài vực ải, Tiếng tăm vang khắp Thái Bình a!


11.瀘江早泛

催曉鑼聲天色曙橫篙江岸竹堤陰溪毛冷落朝烟罩嶺樹朦朧宿霧深喚渡行人侵雪徑去巢鳥鵲噪雲林篷窗乍醒關山夢呼稚烹茶即景吟

LƯ GIANG TẢO PHIẾM

Thôi hiểu la thanh thiên sắc thự, Hoành cao giang ngạn trúc đê âm. Khê mao lãnh lạc triêu yên trác,


1 Tử tái: ải tía, chỉ trường thành. Sách Cổ kim chú, mục Đô ấp của Thôi Báo có chép: “Nhà Tần xây trường thành, gạch đá đều có màu tía, các ải nhà Hán cũng vậy, vì thế gọi là tử tái”. Ở đây chỉ ải quan ở Trung Quốc.

2 Hoàng đường: nhà vàng, chỉ nơi làm việc của quan Thái thú.

Lĩnh thụ mông lung túc vụ thâm. Hoán độ hành nhân xâm tuyết kính, Khứ sào ô thước táo vân lâm.

Bồng song sạ tỉnh quan sơn mộng, Hô trĩ phanh trà tức cảnh ngâm.

Dịch nghĩa:

BUỔI SỚM ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG LƯ

Tiếng chiêng giục trời sáng, bầu trời hửng nắng, Mái chèo ngang bờ sông, bóng trúc mát mẻ.

Cỏ bên suối tiêu điều khói sớm mờ phủ, Cây trên ngàn mờ mịt lẫn trong sương móc.

Người đi đường gọi đò ồn cả con đường đầy tuyết, Quạ rời tổ bay, náo loạn cả rừng.

Trong thuyền chợt tỉnh giấc mộng quan sơn, Gọi trẻ pha trà tức cảnh ngâm thơ.

Dịch thơ:

Chiêng vang gọi thức mặt trời hồng, Bóng trúc la đà, chèo quế vung.

Lạnh lẽo cỏ khe mây sớm phủ, Mông lung cây núi móc sương lồng. Gọi đò bao khách vang đường tuyết, Rời tổ đàn chim rộn cõi không.

Giấc mộng quan san ta chợt tỉnh, Pha trà gọi trẻ, hứng thơ nồng.

吳澧溪曰曉景如畫

Ngô Lễ Khê bình: Cảnh sáng mai như tranh vẽ.

12.響湖

響湖一派水溶溶屏障高低兩岸峰急溜烟凌驚浴鳥狂瀾風引喚眠龍簾橫白練封山色苔洗青衣露石容太古琹聲疑有調近來無路覓前蹤

HƯỞNG HỒ

Hưởng hồ nhất phái thuỵ dung dung, Bình chướng cao đê lưỡng ngạn phong. Cấp lựu yên lăng kinh dục điểu,

Cuồng lan phong dẫn hoán miên long. Liêm hoành bạch luyện phong sơn sắc, Đài tẩy thanh y lộ thạch dung.

Thái cổ cầm thanh nghi hữu điệu, Cận lai vô lộ mịch tiền tung.

Dịch nghĩa: HƯỞNG HỒ

Dòng nước Hưởng hồ chảy man man,

Hai bên là núi non lô nhô làm bình phong.

Nước chảy xiết khói mù toả làm kinh hoảng lũ chim đang tắm,


Sóng gào gió thổi làm thức lũ rồng ngủ dưới vực sâu.

Nước hồ như màn lụa trắng vắt ngang màu núi xanh,

Dội xuống bờ rêu xanh như chiếc áo làm lộ vẻ đá. Tiếng đàn cầm thời thái cổ ắt là có điệu,

Dạo này không có đường đi cứ phải tìm dấu người đi trước.

Dịch thơ:

Hưởng Hồ con nước chảy lênh đênh, Núi vút lô nhô tựa hoạ bình.

Gió cuốn sóng trào, rồng thức giấc, Nước trôi khói quyện, vạc hoàng kinh. Vắt màn lụa trắng, non che dáng,

Gội áo rêu xanh, đá hiện hình. Thái cổ đàn kia e có điệu,

Gần đây không lối, hỏi tiền trình.


吳澧溪曰驚鳥喚龍響亦急矣不謂山腰小湖亦能如此震撼可知有一勺之多者便自作勢不獨江海爲能風波

Ngô Lễ Khê bàn: Làm chim hoảng hốt, rồng thức giấc, tiếng vang ấy hẳn cũng gấp gáp lắm, chớ nói cái hồ nhỏ nơi xườn non cũng có thể chấn động như vậy, đủ biết nhiều suối hồ thì có thể làm nổi cơn sóng gió không phải chỉ riêng có sông biển thôi đâu.

阮素如曰喚字若有靈氣

Nguyễn Tố Như bàn: Chữ “hoán” (gọi) như có khí thiêng.

13.登金鷄巖 1

金鷄巖上觀音洞畫鷁津頭望寶幢戲水鶵鷗隨客艇避烟老鶴宿禅窗鴨香有跡薰蓮座鳬履無踪渡葦江何處佳人憑鷲嶺白衣相証翠眉雙

ĐĂNG KIM KÊ NHAM

Kim Kê nham thượng Quán Âm đông (động), Hoạ nghịch tân đầu vọng bảo tràng.

Hý thuỵ sồ âu tuỳ khách đĩnh, Tỳ yên lão hạc túc thiền song. Áp hương hữu tích huân liên toạ, Phù lý vô tung độ vỷ giang.

Hà xứ giai nhân bằng Thứu Lĩnh,


1 Nguyên chú: 限三江韻用每句一禽名岩出江邊上有石洞奉觀音佛極有清趣 Hạn vận Tam giang, mỗi câu đều dùng tên một loài chim,

núi ló ra trên dòng sông có động đá thờ phật Quan Âm, cảnh sắc thanh nhã.

Bạch y tương chứng thuý mi song.2

Dịch nghĩa:

LÊN NÚI KIM KÊ

Trên núi Kim Kê có động Quán Âm,

Thuyền vào đầu bến sông, nhìn tràng phan báu. Chim âu giỡn nước bay theo thuyền khách, Cánh hạc tránh sương trú ở cửa thiền.

Hương thiên nga còn thoảng thơm cả toà sen,

Dấu chim le le qua dòng sông vi lô không để lại vết.

Giai nhân nơi nào mà đứng nơi núi Thứu Lĩnh, Áo trắng cùng chứng nơi đôi mày biếc.

Dịch thơ:

Động Quan Âm trên núi Gà Vàng, Tạm ghé bờ sông, ngóng bảo tràng. Thuyền sứ âu vờn tung sóng nước, Cửa thiền hạc trú ẩn sương loang. Toà sen còn thoảng hương thiên điểu, Sông Vỹ nào in dấu nhạn sang.

Đâu chốn giai nhân nương Thứu Lĩnh, Bạch y cùng chứng nét mi hường.


吳澧溪曰文難在起句詩難在結句若非此人來得湊巧詩翁恐未必完篇第可惜佳人只充詩料

Ngô Lễ Khê bình: Làm văn khó ở câu mở đầu, làm thơ khó ở câu kết, nếu không có người ấy đến một cách trùng hợp, bậc thi ông e cũng chưa chắc hoàn tất bài thơ, đáng tiếc người đẹp chỉ là sung vào làm chất liệu cho thơ thôi.

阮素如曰以活白衣影出死白衣筆態幻化

Nguyễn Tố Như bình: Làm sống cái bóng áo trắng ra khỏi cái áo trắng chết, bút thái thật huyền ảo.

14.南寧紀勝

左江兵備道臺師劍佩鏗鏘示武儀泡澗長流儂子恨崑山永勒狄青碑城分雉堞臨天際屋串蟬聯傍水涯夜月江亭宴賓客龍光遥射伏波祠

NAM NINH KÝ THẮNG

Tả giang binh bị đạo đài sư, Kiếm bội kiên tương thị vũ nghi.

Bào giản trường lưu Nùng Tử hận3,


2 Nguyên chú: 時有一美人淡粧衣白先在佛前行香此亦詩料也 Bấy giờ có một người đẹp mặc áo trắng tô phấn nhạt đang hành hương trước bàn Phật, bèn lấy làm thi liệu.

3 Nùng Tử: tức Nùng Trí Cao, người Man, châu Quảng Nguyên, thời

Tống (thời Lý nước ta). Đầu thời Đường, họ Nùng xưng hùng ở Tây Nguyên, đời thường gọi là Châu thủ lĩnh, cuối thời Đường, tri đảng vẫn ở đó là Nùng Toàn Phúc, bị người Giao Chỉ giết, người vợ gả cho


Côn sơn vĩnh lặc Địch Thanh bi1. Thành phân trĩ điệp lâm thiên tế, Ốc xuyến thiền liên bạng thuỵ nhai.

Dạ nguyệt giang đình yến tân khách, Long quang dao xạ Phục Ba từ.

Dịch nghĩa:

GHI LẠI CẢNH SẮC NAM NINH

Bên bờ Tả giang đoàn quân đạo đài mang khí giới, Kiếm đeo leng keng tỏ rõ oai nghi.

Suối chảy mãi nỗi hận Nùng Tử,

Núi Côn Luân còn bia khắc chiến công của Địch Thanh.

Thành trì trông cứ như đứt rồi lại nối, tít tắp tận chân trời,

Nhà cửa nối tiếp nhau, ở dọc theo bờ nước.

Đêm trăng bên ngôi đình sông, bày tiệc đãi khách, Ánh sáng rực rỡ rọi vào đền Phục Ba.

Dịch thơ:

Binh lính đạo đài giữa Tả giang, Kiếm gươm lấp lánh, rạng oai phong. Suối khe mãi chảy oan Nùng Tử,

Bia núi còn ghi chuyện Địch công. Điệp điệp cửa nhà bên bến nước,

Trùng trùng thành quách giữa bầu không. Bên đình mở tiệc đêm trăng sáng,

Đền Phục Ba kia cũng rực hồng.

吳澧溪曰遒勁逼古

Ngô Lễ Khê bình: Mạnh mẽ xa vời, gần với cổ phác.

阮素如曰挺特有古意俯仰千古語有感慨

Nguyễn Tố Như bình: Rất có cổ ý, nhìn suốt ngàn xưa, lời chất chứa cảm khái.

15.

仙橈一過小南京2滿眼繁華煥路程錦綉新題光水閣管絃逸韻遶江城杯斟鸚鵡筳賓客旗擁龍蛇耀甲兵


một thương nhân, sinh được Trí Cao, nhưng vẫn lấy họ Nùng, người Giao Châu cho y cai quản châu Quảng Nguyên. Trí Cao bèn đánh châu An Đức, chiếm cứ Quảng Nam, đánh Hỗ Châu, dựng nước Đại Nam. Năm thứ 5 niên hiệu Hoàng Hựu nhà Tống, Địch Thanh mang quân đánh, dẹp yên. Về sau Nùng Trí Cao mất ở Đại Lý.

1 Địch Thanh: người Tây Hà đời Tống, tự là Hán Thần, giỏi cỡi ngựa bắn tên, tinh thông binh pháp, tính ông cẩn thận ít nói, lại thường cất

nhắc tướng tá. Vào thời vua Tống Nhân Tông, quân Tây Hạ làm phản, Thanh làm Diên Châu chỉ sứ, lúc lâm trận, ông xoã tóc, đeo mặt nạ đồng, kẻ địch trông thấy tưởng ông là thần. Sau đó, khi Nùng Trí Cao làm loạn, đúng vào tết Thượng nguyên, Thanh giăng đèn bày tiệc, canh ba đem kỳ binh đột nhập ải Côn Luân. Chỉ trong một ngày đêm thì phá được giặc, dẫn quân về kinh sư, được phong làm Khu mật sứ. Lúc ông mất được tặng chức Trung thư lệnh, ban thuỳ là Vũ Tương.

2Nguyên chú: 南寧俗稱小南京 Nam Ninh tục gọi là Tiểu Nam Kinh.

文獻也知吾國寶將從何處不逢迎

HỰU

Tiên nghiêu nhất quá Tiểu Nam Kinh, Mãn nhãn phồn hoa hoán lộ trình.

Cẩm tú tân đề quang thuỵ các,

Quản huyền dật vận nhiễu giang thành. Bôi châm anh vũ diên tân khách,3

Kỳ ủng long xà diệu giáp binh.4 Văn hiến dã tri ngô quốc bảo,

Tương tùng hà xứ bất phùng nghênh?

Dịch nghĩa: LẠI CÓ THƠ

Thuyền sứ vừa qua đất Nam Ninh,

Cảnh phồn hoa khắp cõi rọi sáng đường đi.

Thơ mới làm, đẹp như gấm vóc, sáng rực cả đài gác trên sông,

Vần thơ cao vời như tiếng sáo đàn vương vấn thành trì bên sông.

Rượu rót như tiếng vẹt kêu mời tân khách, Cờ che rậm rạp sáng cả giáp binh.

Văn hiến cũng biết là báu vật nước ta, Nên từ nơi nào mà không nghênh đón? Dịch thơ:

Sứ thuyền rời khỏi Tiểu Nam Kinh, Khắp chốn phồn hoa đẹp lộ trình. Gấm vóc câu thơ tô thuỷ các,

Sáo đàn điệu vút lộng giang thành. Rượu tràn dào dạt mời tân khách, Cờ rợp um tùm rạng giáp binh.

Văn hiến nước ta là quốc bảo, Nên nơi nào cũng đón thân tình!


16.永純城記見永純江口渡斜暉隱隱樓臺半掩扉塔影崢嶸標縣治樹梢蔽芾擁城圍丈夫傾蓋迎王使稚子登舟看錦衣通夜淹畱清旅夢燠逢天氣刧寒威

VĨNH THUẦN THÀNH KÝ KIẾN

Vĩnh Thuần giang khẩu độ tà huy, Ẩn ẩn lâu đài bán yểm phi.

Tháp ảnh tranh vanh tiêu huyện trị,


3 Anh vũ: chim vẹt. Phú Anh vũ của Nễ Hành có câu: “Hữu hiến anh vũ giả, cử tửu ư Hành tiền viết” (Có kẻ dâng chim anh vũ, nâng chén rượu trước mặt Hành nói). Thu hứng, bài 8, của Đỗ Phủ có câu: “Hương đạo trác dư anh vũ lạp, Bích ngô thê lão phụng hoàng chi” (Gạo thơm chim vẹt mổ từng hạt, phụng hoàng bay đỗ lên cây ngô đồng xanh). Ở đây ý chỉ tiếng rót rượu mời khách nghe như tiếng vẹt mổ thóc.

4 Long xà: đã chú thích ở trên. Ở đây có ý chỉ cờ xí rợp trời.


Thụ sao tế phất ủng thành vi.

Trượng phu khuynh cái nghênh vương sứ, Trĩ tử đăng chu khán cẩm y.

Thông dạ yêm lưu thanh lữ mộng, Öc phùng thiên khí khước hàn uy. Dịch nghĩa:

GHI LẠI NHỮNG ĐIỀU NHÌN THẤY Ở THÀNH VĨNH THUẦN

Qua cửa sông Vĩnh Thuần trong bóng chiều, Lâu đài thấp thoáng cửa cài hờ.

Bóng tháp chon von như nêu cao huyện trị, Ngọn cây cao thấp bao bọc lấy thành trì.

Người lớn thì che dù đón sứ đoàn nhà vua, Trẻ con thì lên thuyền xem áo gấm.

Suốt đêm giấc mộng khách bồng bềnh, Cuộc gặp gỡ ấm áp xua tan thời tiết lạnh. Dịch thơ:

Giang Thuần đầu bến nắng chiều phai, Thấp thoáng lâu đài cửa hé cài.

Huyện sở nhận ra nhờ chóp tháp, Thành trì bao bọc bởi ngàn cây. Quý ông che lọng chào vương sứ, Trẻ nhỏ lên thuyền ngắm áo ai.

Mộng khách bồng bềnh đêm lặng lẽ, Xua tàn hơi lạnh, ấm lòng thay.


18.題美人搖櫓圖天然秀媚已堪餐搖櫓佳人更可觀楊柳風低腰帶墜芙蓉霜淡臉脂寒微含春悶嬌無力半露秋晴影欲闌刧恨丹青偏著筆不將璜珮畫紅顏

ĐỀ MỸ NHÂN DAO LỖ ĐỒ

Thiên nhiên tú mỳ dĩ kham xan, Dao lỗ giai nhân cánh khả quan. Dương liễu phong đê yêu đới truỳ, Phù dung sương đạm liễm chi hàn. Vi hàm xuân muộn kiều vô lực, Bán lộ thu tình ảnh dục lan.

Khước hận đan thanh thiên trứ bút, Bất tương hoàng bội hoạ hồng nhan. Dịch nghĩa:

ĐỀ TRANH NGƯỜI ĐẸP BƠI CHÈO

Thiên nhiên xinh đẹp như có thể ăn được, Người đẹp bơi thuyền càng thích xem.

Gió thổi hàng dương liễu, thắt lưng sà xuống, Sương nhạt nhoà hoa phù dung, vẻ mặt thoa phấn lạnh lùng.

Ngậm nỗi sầu xuân, người con gái như không có sức,

Vẻ thu nửa lộ ra, bóng hình muốn tan đi. Lại hận cho người hoạ sĩ vẽ chưa trọn vẹn,

Không đem ngọc hoàng bội để vẽ nét mặt hồng của nàng.

Dịch thơ:

Thiên nhiên đẹp đẽ, muốn ăn khan, Người đẹp bơi thuyền, ghé mắt sang. Dương liễu gió sà, đai áo trễ,

Phù dung sương nhạt, phấn son lan. Xuân sầu nhuốm vẻ, hình không sức, Thu tạnh ngưng sương, bóng muốn tan. Hận khách đan thanh thiên lệch thế, Chẳng dùng hoàng bội vẽ hồng nhan.


吳澧溪曰美人妙在神思而容色次之故畫美人圖難能畫其容色而不能畫其神思故詠美人圖更難風低帶墜霜淡脂寒春悶含嬌秋晴露影畫之工耶抑詩之工耶詩得於畫圖之中耶抑神契心會於畫圖之外耶何其情思飄逸意態輕盈人覧之如西施東牆宛然在目詩翁可謂善形容矣噫女之有色猶士之有才才必伸於相知色必悅於相憐否則韶英咸護魚鳥皆驚袞衣繡裳猨狙何慕

Ngô Lễ Khê bình: Người đẹp là đẹp ở thần tứ, mà dung nhan vẻ mặt là thứ yếu, nên chi vẽ tranh người đẹp khó vẽ được nhan sắc đã đành lại càng không thể vẽ được thần tứ, vì vậy vịnh thơ tranh người đẹp lại càng khó. Gió sà đai trễ, sương nhạt phấn lạnh, sầu xuân hàm tiếu, bóng sương thu tạnh, là do người vẽ vẽ khéo chăng hay là do người làm thơ hay chăng? Thơ đạt được cái trong bức hoạ, hay là thần tâm khế hợp hơn cả vẻ ngoài của bức hoạ? Mà sao tình tứ của nàng phiêu dật, ý thái nhẹ nhàng tha thướt, khiến người xem tưởng tựa Tây Thi đứng nơi tường đông. Có thể nói nhà thơ khéo tưởng tượng vậy. Ôi, con gái có sắc giống như con trai có tài. Tài ắt lộ ra chỗ tương tri, sắc ắt lộ ra chỗ tương lân, nếu không thế thì vẻ đẹp, tài năng cùng che lấp, chim cá thảy sợ, áo bào xiêm gấm cũng chỉ là loài đười ươi mà thôi, có gì đáng mộ?

阮素如曰風態流動似有脂粉氣

Nguyễn Tố Như bình: Phong thái trôi chảy như có hơi hướm phấn son.


19.途中慈親諱日懷感霜凋殘葉露濡枝

不覺年華已換時夢入杯棬芳澤在望迴枌梓白雲馳關山有路牽離恨湖海無階達孝思難假桑蓬供爼豆也應悔作好男兒


ĐỒ TRUNG TỪ THÂN HUÝ NHẬT HOÀI CẢM

Sương điêu tàn diệp lộ nhu chi, Bất giác niên hoa dĩ hoán thì.

Mộng nhập bôi quyền phương trạch tại, Vọng hồi phần tử bạch vân trì.

Quan san hữu lộ khiên li hận, Hồ hải vô giai đạt hiếu tư.

Nan giả tang bồng cung trở đậu, Dã ưng hối tác hảo nam nhi.

Dịch nghĩa:

GIỮA ĐƯỜNG GẶP NGÀY GIỖ CHA MẸ

Sương làm lá tàn tạ, móc đầm cành, Bất giác đã qua tuổi hoa niên.

Mộng quay về chén bát gỗ, hương thơm còn đó, Ngoảnh đầu nhìn quê hương, mây trắng mờ bay. Núi non có đường chăn dắt nỗi hận xa quê,

Biển hồ không có bậc thềm để thấu đạt tấm lòng hiếu.

Nếu như thoả chí tang bồng cũng khó mà bày đồ để cúng tế mẹ,

Thì cũng nên hối hận dù là một đấng nam nhi giỏi giang.

Dịch thơ:

Sương gieo lá rụng, móc mềm cây, Năm tháng đâu hay đã luống ngày. Bát chén hằng mơ, hương vẫn đượm,

Quê hương ngoảnh lại, trắng màn mây. Nỗi xa, non núi bao đường dắt,

Lòng hiếu, biển hồ chẳng bến phơi. Thoả chí tang bồng khôn tế mẹ, Cũng nên tủi hổ phận làm trai.

吳澧溪曰愴慨由衷

Ngô Lễ Khê bình: Cảm khái thê lương ấy bởi có tấm lòng thành.


20.過起敬灘題馬伏波祠嶺外遐荒廣帝圖

將軍古廟倚崗梧茅分天地今猶在米聚山谿昔未蕪銅柱直將畱偉績雲臺何必繪嘉謨五灘千古經過後爲感精忠奠一壺

QUÁ KHỞI KÍNH ĐƯỜNG ĐỀ MÃ PHỤC BA TỪ

Lĩnh ngoại hà hoang quảng đế đồ, Tướng quân cổ miếu ỵ Cương Ngô. Mao phân thiên địa kim do tại,

Mễ tụ sơn khê tích vị vu.

Đồng trụ trực tương lưu vĩ tích,

Vân đài hà tất hội gia mô.

Ngũ than thiên cổ kinh qua hậu, Vị cảm tinh trung điện nhất hồ. Dịch nghĩa:

Muốn mở mang nghiệp đế nên đi về hướng nam xa xôi,

Toà miếu cổ thờ tướng quân nằm dựa trên đồi Cương Ngô.

Cỏ tranh chia trời đất đến nay vẫn còn,

Gạo thóc chất đầy núi khe xưa nay chưa từng hoang vu.

Trụ đồng kia vẫn còn lưu công nghiệp to lớn, Đài Vân nọ đâu cần phải vẽ tranh để ngợi khen. Ngàn năm sau qua bến Ngũ hiểm,

Vì cảm tấm lòng trung của ông mà tế một bình rượu.

Dịch thơ:

Lĩnh ngoại xa xôi, mở đế đồ,

Cương Ngô miếu cũ tướng quân trơ. Cỏ chia thiên hạ, nay còn đó,

Thóc chất non cao, dấu chửa mờ. Đồng trụ hãy còn ghi nghiệp lớn, Vân đài hà tất vẽ tranh thờ.

Ngũ than qua bến ngàn sau vẫn, Cảm mối trung thành, tế rượu thơ.


吳澧溪曰漢家宮闕巳隨雲水將軍古廟獨倚崗梧不知何以得此蓋嗇於此者豐於彼勇足以平僭亂而不能弭貝錦之讒貴足以爲天子翁而不得與丹青之列將軍受虧於漢亦以多矣然其英雄事業轟轟烈烈茅分天地過粵嶺者思其功米聚山谿讀漢書者羨其智生有益死有聞以此取償於造物故能周流磅薄血食南北瞻其廟無不起敬想其人無不歆慕此詩寫得痛快襯切括盡將軍平生謂之詩也可卽謂將軍贊也亦可

Ngô Lễ Khê bình: Cung khuyết nhà Hán trôi theo mây nước, miếu cổ thờ tướng quân còn trơ dựa ở Cương Ngô, chẳng biết vì sao lại được như vậy, phàm đã mất cái này thì lại được cái kia, cái dũng có thể bình giặc loạn nhưng không thể che được lời dèm pha, sự sang giàu đủ để làm đấng thiên tử mà không được liệt vào tranh vẽ để thờ. Tướng quân chịu sự mất mát bởi nhà Hán cũng nhiều, nhưng sự nghiệp anh hùng vang dội, cỏ mao chia thiên hạ nơi Việt Lĩnh của ông, nghĩ công ấy như thóc chất đầy núi khe. Ai đọc sách Hán thư cũng mộ tiếng lúc sống thời có ích, lúc chết thời vang danh, lấy điều đó mà đền nghì tạo hoá, mới có thể trôi chảy bàng bạc, thông suốt từ Bắc đến Nam. Trông miếu ấy, không ai không khởi lòng kính nể, nghĩ đến người, chẳng ai chẳng hâm mộ. Bài thơ này lời lẽ thống khoái thân thiết lại bao quát cả


cuộc đời tướng quân, gọi là thơ cũng được mà gọi là bài tán tướng quân cũng được vậy.

阮素如曰句法壯健有如是翁

Nguyễn Tố Như bình: Cú pháp tráng kiện, chỉ có ông được thế.

21.過五險灘 1

幾渡浮航幾度梯仙橈又泛五灘溪狂瀾烟逐鮫宮散雪浪花分鴈影迷廵檢新臺風陣陣伏波古廟草萋萋囘頭乍醒江湖夢沽酒相將擬品題

QUÁ NGŨ HIỂM THAN

Kỵ độ phù hàng kỵ độ thê,

Tiên nghiêu hựu phiếm Ngũ than khê. Cuồng lan yên trục giao cung tán, Tuyết lãng hoa phân nhạn ảnh mê.

Tuần kiểm tân đài phong trận trận, Phục Ba cổ miếu thảo thê thê.

Hồi đầu sạ tỉnh giang hồ mộng, Cô tửu tương tương nghĩ phẩm đề. Dịch nghĩa:

QUA BẾN NGŨ HIỂM

Bao phen đi thuyền trên sông nước, mấy lần đi bộ vượt núi non,

Bè tiên (thuyền sứ) nay lại qua khe Ngũ Hiểm. Sóng lớn khói mù làm tan giao cung,

Tuyết bay mờ mịt làm bóng nhạn lạc đường. Trên đài kiểm tra gió lùa từng trận,

Trước miếu Phục Ba cỏ mọc xanh rờn. Ngoảnh đầu, chợt tỉnh mộng sông hồ,

Tướng văn rót rượu mời tướng võ cùng với mấy vần thơ.

Dịch thơ:

Bao độ bồng bềnh chừ bấp bênh,

Bè tiên Ngũ Hiểm vượt duềnh duềnh. Sóng trào khói cuốn, cung giao tán, Tuyết xoáy hoa tàn, bóng nhạn kinh. Tuần kiểm đài cao, ngàn gió lộng, Phục Ba miếu cổ, cỏ um xanh.

Ngoảnh đầu chợt tỉnh giang hồ mộng, Rượu rót thơ đề tôi với anh.

阮素如曰眼前真景不在搜索

Nguyễn Tố Như bình: Cảnh thật bày trước mắt, chẳng cần tìm đâu.


22.潯洲夜泊

暮笳何處向洲涯聲落蓬窗動旅懷水閣懸登迎國貢江廵敲柝點征牌驚看鴈影翻殘雪夢入鵷行整玉階城上砲聲催曉漏回頭花草弄晴街

TẦM CHÂU DẠ BẠC

Mộ già hà xứ hướng châu nhai, Thanh lạc bồng song động lữ hoài.

Thuỵ các huyền đăng nghênh quốc cống, Giang tuần xao tích điểm chinh bài.

Kinh khan nhạn ảnh phiên tàn tuyết, Mộng nhập uyên hàng chỉnh ngọc giai. 2 Thành thượng pháo thanh thôi hiểu lậu, Hồi đầu hoa thảo lộng tình nhai.

Dịch nghĩa:

Tiếng tù và chiều từ đâu vọng đến bến,

Tiếng lọt vào song thuyền làm động lòng xa xứ. Trên thuỵ các treo đèn, đón phẩm vật cống nạp, Quan tuần sông gõ liếp cửa, kiểm thẻ đi đường. Kinh nhìn trong tuyết tàn, bóng nhạn bay nghiêng, Mộng về nơi thềm ngọc, đàn chim uyên ngay ngắn xếp hàng.

Tiếng pháo trên thành giục giã trời sáng, Ngoảnh đầu nhìn, hoa cỏ rợp cả non xanh. Dịch thơ:

Tiếng và chiều tối vọng đâu đây, Điệu lọt song xui nỗi lữ hoài.

Đình tạ treo đèn nghênh quốc cống, Tuần sông gõ liếp kiểm chinh bài.

Tuyết tàn ngồi ngắm, nhàn nghiêng bóng, Thềm ngọc mộng về, én lượn bay.

Tiếng pháo trên thành xua giấc sớm, Ngoảnh đầu: hoa cỏ ngập chân mây.


吳澧溪曰乘車衣錦也雖窮山僻水儘可興懷命蹇時違者雖勝地芳辰難逢開笑昔白香山夜泊潯洲有客焉有酒焉有明月照江心有婦人彈琵琶何等風流標致而青衫淚濕不禁傷情使公夜泊潯洲但見水閣之燈江廵之柝翻殘雪之鴈影落蓬窗之笳聲何等蕭瑟寂寞而玉階入夢忠愛惓惓此地此時所遇則同而所趨各別蓋香山窮官也使公達宦也窮人觸處生悲故琵琶行言長而怨深達人志在君國故此詩意思安閒不費筆力



1 Nguyên chú: 灘中有五險處故名五險左岸有馬伏波廟右岸名大灘司廵檢(mất một chữ)駐劄 Trong bến có năm chỗ rất hiểm trở, nên có

tên là Ngũ hiểm. Mé bờ trái có miếu thờ Mã Phục Ba, mé bờ phải tên Đại than tư là nơi có tháp canh gác tuần tra.


2 Uyên hàng chỉnh ngọc giai: như chim uyên xếp theo hàng ngay ngắn nơi thềm ngọc, có ý nói quan văn quan võ đứng xếp hàng dưới sân triều như đàn uyên. Cả câu thơ có ý nói tác giả luôn mơ về triều đình.


Ngô Lễ Khê bình: Mặc áo gấm ngồi kiệu xe, tuy vào núi sông hẻo hút cũng thả hết hứng lòng; khi số mệnh trắc trở thất thời, thì dẫu cảnh đẹp giờ lành cũng khó mở miệng cười vui. Xưa thì Bạch Hương Sơn (Bạch Cư Dị - LQT) đêm đỗ thuyền Tầm Châu, có khách, có rượu, có trăng sáng chiếu lòng sông, có ca nữ gảy đàn tì bà… đủ vẻ phong lưu như thế, mà áo xanh đẫm lệ đau lòng. Sứ công (Lê Quang Định – LQT) đêm tối đỗ thuyền bến Tầm Châu, chỉ thấy ngọn đèn nơi thuỵ các, trát thư của kẻ tuần sông, bóng nhạn nghiêng trong tuyết tàn, tiếng tù và lọt vào cửa thuyền… cảnh sắc hiu hắt tịch mịch làm sao, mà giấc ngủ vẫn mơ mòng về cửa khuyết, niềm trung quân ái quốc láng lai. Những điều gặp gỡ tại nơi này lúc này, ai cũng như ai, mà cảm xúc thì mỗi người mỗi khác. Kẻ Hương Sơn kia là cùng quan, còn sứ công là người hiển đạt; người cùng thì lòng thấy cô độc mà sinh buồn, nên lời khúc Tỳ bà hành dài mà nặng niềm oán thán; còn kẻ hiển đạt chí ở việc nước việc vua thế nên ý tứ bài thơ an nhàn mà chẳng phí bút lực.

23.別南寧分府黃德明 1

舟車迢遞好逢君香近芝闌久不聞鄭重亭梅春半點低徊梁月夜平分數聲斑馬嘶芳草一片孤帆掛夕雲多少別情難盡話謾將三弄記離群

BIỆT NAM NINH PHÂN PHỦ HOÀNG ĐỨC MINH

Chu xa điều đệ hảo phùng quân, Hương cận chi lan cửu bất văn. Trịnh trọng đình mai xuân bán điểm, Đê hồi lương nguyệt dạ bình phân. Sổ thanh ban mã tê phương thảo, Nhất phiến cô phàm quải tịch vân.

Đa thiểu biệt tình nan tận thoại, Mạn tương tam lộng ký li quần.2 Dịch nghĩa:

TỪ BIỆT HOÀNG ĐỨC MINH PHÂN PHỦ NAM NINH

Thuyền xe từ xa xôi đến, may gặp được anh,

Gần với cỏ chi lan lâu ngày không nghe thấy mùi nữa.

Hoa mai nơi mái đình trịnh trọng nở nửa vẻ xuân,


1 Nguyên chú: 黃短送別潯洲府謝歸用李青蓮別中都明府元韻書贈 Họ Hoàng tiễn đưa một đoạn đến phủ Tầm Châu mới từ tạ trở về, bèn theo nguyên vần bài Biệt Trung đô Minh phủ của Lý Thanh Liên (Lý Bạch) để đáp tặng.

2 Tam lộng: chưa rõ điển, nhưng có lẽ chỉ thơ ca, một trong bốn thú vui tao nhã của cổ nhân: cầm, kỳ, thi, hoạ.

Bóng trăng nơi mái nhà bồi hồi lúc nửa đêm. Mấy tiếng ngựa hý giữa cỏ non xanh,

Một tấm buồm đơn chở mây chiều.

Tình cảm xa cách nhiều vô kể, sao nói hết được, Mượn đem giấy bút ghi lại nỗi cách xa.

Dịch thơ:

Vời vợi xe thuyền, may có anh, Chi lan gần gũi, dạ khôn đành. Mai đình hé nở, xuân chưa trọn, Bóng nguyệt sà soi, tối vắng tanh. Mấy tiếng ngựa vang lồng cỏ ngát, Cánh buồm cô lẻ chở mây xanh.

Tình xa biết mấy, lời khôn tỏ, Tạm lấy câu thơ tỏ tấc thành.

阮素如曰似此佳句把古人喝退數步

Nguyễn Tố Như bình: Những câu thơ hay như thế này có thể bức cổ nhân lùi mấy bước.

24.梧州除夜

舟次梧江凍雪開夜間寒燠正相催迎新韻雅行中句送臘香分贈後梅故國未歸羞衣錦明年無事謾傾杯回頭街巷傳燈燭恍認龍光射斗台

NGÔ CHÂU TRỪ DẠ

Chu thứ Ngô giang đống tuyến khai, Dạ gian hàn úc chính tương thôi.

Nghênh tân vận nhã hành trung cú, Tống lạp hương phân tặng hậu mai. Cố quốc vị quy tu ý cẩm,

Minh niên vô sự mạn khuynh bôi. Hồi đầu nhai hạng truyền đăng chúc, Hoảng nhận long quang xạ đẩu đài.3 Dịch nghĩa:

ĐÊM BA MƯƠI TẾT Ở NGÔ CHÂU

Thuyền đỗ ở sông Ngô, tuyết đông tan, Nửa đêm khí nóng khí lạnh đang thay nhau.

Giữa đường làm được mấy câu thơ đón năm mới, Hoa mai nở tặng ta chút hương thơm.

Quê cũ chưa về được, thẹn ta mặc áo gấm, Sang năm rảnh việc, cứ dốc chén uống cho say.


3 Long quang: tức kiếm khí, ánh sáng của kiếm, cùng nghĩa với Long tuyền hay Long uyên. Truyện Trương Hoa trong Tấn thư: Giữa vùng sao đẩu và sao ngưu có ánh sáng tía. Lôi Hoán người Dự Chương nói: Đó là kiếm khí xông lên trời xanh mà ra. Trương Hoa hỏi nó ở quận nào? Hoán bảo ở Phong thành, đất Dự Chương. Hoa liền bổ chức Phong Thành lệnh cho Hoán, khi Hoán đến liền cho khai quật nền ngục, đào sâu hơn bốn trượng, thì gặp một hộp đá, ánh sáng lạ thường, bên trong có hai thanh kiếm có khắc chữ Long tuyền và Thái a. Đêm ấy không còn thấy ánh sáng tía giữa vùng sao đẩu và sao ngưu nữa.

Xem tất cả 409 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí