quản lý NH và các nhà hoạch định chính sách nhằm tăng cường hiệu quả NH trong thời gian sắp tới. Có tất cả bảy hàm ý chính sách được tác giả đề xuất cho hai nhóm chủ thể chính là các cơ quản chủ quản và các NHTM.
5.2.1. Đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước
5.2.1.1. Cải thiện điều kiện cạnh tranh của các ngân hàng
Cơ sở đề xuất chính sách:
Mối quan hệ tích cực giữa cạnh tranh và hiệu quả có thể được giải thích bởi thực tế là áp lực cạnh tranh càng lớn thì các NH càng hoạt động hiệu quả. Mục đích chính của chính sách cạnh tranh là để thúc đẩy cạnh tranh công bằng giữa các NH. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy cạnh tranh có mối quan hệ phi tuyến tính với hiệu quả NH, tức là nếu cạnh tranh gia tăng đến một mức độ nhất định sẽ không còn tác động tích cực nữa mà thay vào đó sẽ có tác động tiêu cực đến HQHĐ của các NH. Do đó, khi xây dựng chính sách cạnh tranh cũng cần tính đến việc xác định một giới hạn cạnh tranh nhất định trên thị trường, tránh để cạnh tranh vượt quá tầm kiểm soát (cạnh tranh hoàn hảo) có thể gây ra những tác động xấu đến hiệu quả NH.
Mặt khác, như đã được chứng minh bởi một số nghiên cứu trước đây (Claessens & Laeven, 2004; Yildirim & Philippatos, 2007; Wu & cộng sự, 2010), sự xâm nhập của các NH nước ngoài vào thị trường NH Việt Nam cần được thúc đẩy vì điều này sẽ giúp gia tăng áp lực cạnh tranh, tái cấu trúc ngành NH và khuyến khích các NH nội địa thay đổi cấu trúc quản trị theo hướng hiệu quả hơn.
Nội dung chính sách:
Chính phủ nên tạo động lực để mỗi NH không ngừng đổi mới công nghệ, thực hiện chính sách giá cả đầu vào và đầu ra hợp lý, tiết kiệm nguồn lực và gia tăng năng suất lao động, từ đó giúp các NH có những sơ sở vững chắc để nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện HQHĐ. Hơn nữa, chính sách cạnh tranh cũng cần hướng đến việc bảo vệ và thúc đẩy gia tăng lợi ích của những người tiêu dùng các dịch vụ tài chính thông qua việc gia tăng sự lựa chọn, được hưởng dịch vụ với chất lượng cao hơn và mức giá thấp hơn. Dựa vào kinh nghiệm của ngành NH ở Anh và châu Âu, để chính sách cạnh tranh được triển khai hiệu quả cần đảm bảo một số trụ cột sau:
i) Chống độc quyền và độc quyền nhóm: Điều này liên quan đến việc loại bỏ các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm việc cố định giá cả (lãi suất, phí dịch vụ…) và các hành động lạm quyền khác bởi các NH nắm giữ vị trí thống lĩnh thị trường (được xác định là có thị phần vượt quá 40%). Mặt khác, Chính phủ cần cân nhắc điều
Có thể bạn quan tâm!
- Thống Kê Mô Tả Các Biến Ước Lượng Hiệu Quả
- Thống Kê Mô Tả Các Chỉ Số Đo Lường Hiệu Quả Tổng Hợp
- Kết Quả Ước Lượng Mô Hình Nghiên Cứu Với Biến Hiệu Quả Opi
- Hạn Chế Của Luận Án Và Một Số Gợi Ý Cho Các Nghiên Cứu Tiếp Theo
- Tác động của cạnh tranh đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Thương mại Việt Nam - 20
- Tác động của cạnh tranh đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Thương mại Việt Nam - 21
Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.
chỉnh mức vốn pháp định phù hợp để nới lỏng các rào cản gia nhập thị trường, tạo điều kiện gia tăng cạnh tranh. Việc xác định mức vốn pháp định cần căn cứ vào sự cân đối thị phần của các NH, đảm bảo không có NH duy nhất nào chiếm lĩnh thị trường, đồng thời duy trì thị phần đối trọng giữa nhóm các NHTM Nhà nước và nhóm các NHTM cổ phần cũng như giữa các NH với các TCTD phi NH.
ii) Tự do hóa thị trường: Chính phủ cần hạn chế các rào cản xâm nhập thị trường, tạo điều kiện để các NH nước ngoài có thể tham gia vào nổ lực gia tăng cạnh tranh trên thị trường NH Việt Nam. Chính phủ nên để ngành NH vận hành theo cơ chế thị trường, hạn chế sự can thiệp kinh tế và quy định của Nhà nước, sự cạnh tranh “sòng phẳng” sẽ tạo động lực để các NH phải tự hoàn thiện mình, nâng cao HQHĐ. Theo đó, Quốc hội cần thảo luận ban hành các văn bản pháp luật về cạnh tranh dành riêng cho hệ thống NH và các TCTD.
iii) Kiểm soát viện trợ của Nhà nước: Chính sách cạnh tranh phân tích các biện pháp viện trợ của Nhà nước cần phải được đảm bảo không làm sai lệch mức độ cạnh tranh trong các thị trường đơn lẻ. Chẳng hạn, NHNN phải kiểm soát hoạt động tái cấp vốn ngắn hạn đối với các TCTD, hạn chế bơm vốn trung và dài hạn và có thể cho phá sản các NH quá yếu kém.
iv) Kiểm soát sáp nhập: Điều này liên quan đến việc điều tra kỹ các NH sáp nhập và NH tiếp quản vì sáp nhập hai NH lớn có thể sẽ dẫn đến việc họ chiếm lĩnh thị trường. Để việc thực thi chính sách cạnh tranh trong lĩnh vực NH có hiệu quả, Thống đốc NHNN nên thành lập một bộ phận chuyên trách, thường xuyên kiểm tra và giám sát cạnh tranh NH. Bộ phận này có nhiệm vụ thực thi các quy tắc, giám sát các hoạt động cạnh tranh, các thương vụ M&A NH, nhằm bảo đảm một môi trường cạnh tranh công bằng và mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.
Như vậy, hàm ý chính sách quan trọng rút ra từ nghiên cứu là Chính phủ có thể tăng cường các điều kiện cạnh tranh hơn nữa bằng cách giảm bớt các trở ngại pháp lý, tuy nhiên về lâu dài, cần chú ý theo dõi và kiểm soát áp lực cạnh tranh cũng như đánh giá sức chịu đựng của từng NH để chính sách cạnh tranh được triển khai có thể đạt được hiệu quả cao nhất.
5.2.1.2. Tạo điều kiện để đẩy mạnh M&A ngân hàng
Cơ sở đề xuất chính sách:
Một trong những thay đổi mang lại hiệu quả rõ rệt cho các NH đó chính là từ việc thực hiện chiến lược M&A. Theo đó, các cơ quan chủ quản cần tạo điều kiện để
xúc tiến và đẩy mạnh hoạt động M&A hơn nữa vì đây chính là điều kiện để các NH gia tăng quy mô vốn, mở rộng thị phần và nâng cao HQHĐ.
Mặt khác, bằng chứng từ nghiên cứu thực nghiệm cho thấy hiệu quả của các NH quốc doanh vượt trội hơn so với các NH ngoài quốc doanh. Như vậy, sự tập trung thị phần toàn ngành vào tay một số NH lớn trong thời gian qua thực sự đã mang lại những hiệu quả nhất định cho cả hệ thống NHTM Việt Nam. Thông qua sự quản lý trực tiếp từ Chính phủ, các NHTM Nhà nước luôn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Thực tế cho thấy, nhờ có những NH này mà những chủ trương, chính sách của Chính phủ có thể nhanh chóng được triển khai và mang lại những hiệu quả thật sự tích cực.
Nội dung chính sách:
Chính phủ và NHNN nên áp dụng một cơ chế đánh giá và phê duyệt các thương vụ M&A NH ở cấp quốc gia một cách thận trọng hơn, tạo điều kiện để các thương vụ được diễn ra thuận lợi và hiệu quả nhất có thể. Theo đó, cần khuyến khích M&A các NH nhỏ và yếu như một phương thức để cải thiện sức mạnh tài chính và sự vững chắc của họ. Đối với các NH quá yếu kém thuộc dạng được kiểm soát đặc biệt, cần tính đến phương án cho phá sản theo quy định trong Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 15/1/2018. Những việc làm này sẽ góp phần tập trung thị phần vào số ít các NH lớn, có chất lượng và tài chính vững mạnh, từ đó sẽ cải thiện được hiệu quả của cả ngành NH Việt Nam. Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền khi NH phá sản, có thể tính đến việc nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi lên gấp nhiều lần hoặc chi vượt mức bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp đặc biệt.
Mặt khác, bài toán thoái vốn Nhà nước ở các NH quốc doanh cần phải được cân nhắc thật kỹ và có lộ trình kế hoạch từng bước cụ thể, tránh chủ quan, nóng vội, vì các NH này có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt đối với một hệ thống tài chính vẫn còn non trẻ như ở Việt Nam.
5.2.1.3. Đẩy mạnh tốc độ phát triển ngành ngân hàng
Cơ sở đề xuất chính sách: Một trong những yếu tố góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả NH là sự phát triển của ngành NH trong thời gian qua. Bên cạnh đó, sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh của các NH tiếp nhận đầu tư nhờ chuyển giao công nghệ hiện đại, hỗ trợ tài chính dồi dào và chia sẻ những kinh nghiệm quản trị quý giá.
Nội dung chính sách:
Để thúc đẩy ngành NH phát triển hơn nữa, Chính phủ cần không ngừng cải thiện cơ sở hạ tầng, hiện đại hóa công nghệ thông tin theo tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, tạo điều kiện hết mức thuận lợi, củng cố nền tảng vững chắc cho các NH trong tiến trình hội nhập và mở cửa thị trường; cần đẩy mạnh tư nhân hóa ngành NH, thu hút vốn từ các cổ đông và nhà đầu tư thông qua thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, các NHTM trong nước cũng cần được khuyến khích mở rộng đầu tư sang các nước trong khu vực, đặc biệt là khối ASEAN, mở rộng mạng lưới vươn tầm khu vực và quốc tế, trở thành cầu nối quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ kinh tế chiến lược giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.
Chính phủ cần tạo điều kiện để thu hút các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước tham gia vào nỗ lực thúc đẩy tốc độ tăng trưởng vốn và quy mô hoạt động của các NH Việt Nam, góp phần cải thiện công nghệ và chia sẻ nền tảng khách hàng.
5.2.1.4. Nâng cao năng lực dự báo và thích ứng với biến động kinh tế vĩ mô
Cơ sở đề xuất chính sách: Hệ lụy từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã kéo theo sự đổ vỡ của hàng loạt hệ thống NH, tình trạng khát tín dụng, giá chứng khoán giảm sâu và đồng đô la bị mất giá trên quy mô lớn xảy ra ở Mỹ và nhiều nước châu Âu đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho hệ thống tài chính của các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Sự ra đời của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia ngay sau đó (ngày 3/3/2018) như là một phương án cứu cánh để giúp các NHTM nói riêng và hệ thống tài chính Việt Nam nói chung có được một cơ sở quan trọng nhằm dự báo và đối phó với viễn cảnh biến động của kinh tế vĩ mô. Hơn 11 năm hoạt động, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia đã có sự phát triển vượt bậc, đóng góp đáng kể đến công tác dự báo biến động vĩ mô, tham mưu, tư vấn cho Chính phủ các chính sách ứng phó kịp thời và hiệu quả trước những cú sốc tài chính.
Nội dung chính sách:
Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, cũng như để thích nghi với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và hệ thống tài chính, nâng cao chất lượng của các báo cáo kinh tế vĩ mô, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia phải không ngừng đổi mới, vận dụng thêm các phương pháp phân tích và mô hình dự báo mới nhất, hiện đại nhất trong công tác phân tích chuyên sâu để cung cấp những dự báo, cảnh báo chính xác nhất. Ủy ban cần có sự liên thông với từng NH và các TCTD để đảm bảo thông tin dự báo được truyền đến các tổ chức này một cách nhanh chóng và kịp thời. Thậm chí,
nếu thấy cần thiết, Ủy ban cũng có thể ngay lập tức phát đi những cảnh báo (không theo chu kỳ báo cáo) để các NH kịp thời ứng phó. Các báo cáo càng chính xác sẽ càng giúp các nhà hoạch định chính sách và quản lý NH có thể nắm bắt được những diễn biến kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tiếp theo. Nhờ đó, những phản ứng chính sách kịp thời và thích hợp có thể được đưa ra nhằm đạt được mục tiêu mong muốn.
Mặt khác, để nâng cao công tác dự báo, cần đặt ra mục tiêu xây dựng một hệ thống báo cáo được công bố hàng tháng thay vì hàng quý như hiện tại, có khả năng dự báo chu kỳ kinh tế sẽ tiếp tục đà phục hồi hay bắt đầu chuyển sang giai đoạn suy thoái chậm nhất trong vòng một quý. Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu của công tác nghiên cứu cũng như xây dựng các mô hình kinh tế lượng dự báo, cần xây dựng hệ thống dữ liệu kinh tế vĩ mô dài hạn và được cập nhật hàng tháng.
5.2.2. Đối với các ngân hàng thương mại
5.2.2.1. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro
Cơ sở đề xuất chính sách: Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, việc mở rộng quy mô hoạt động cho vay mang lại cho NH sự phi hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, cho vay là hoạt động quan trọng và chủ yếu để các NHTM Việt Nam có thể hoàn thành tốt chức năng trung gian tín dụng. Do đó, sẽ rất khó khả thi nếu muốn hạn chế quy mô cho vay của các NH. Thay vào đó, các nhà quản lý và hoạch định chính sách có thể chủ động triển khai thực hiện chiến lược quản trị rủi ro song hành với chiến lược phát triển tín dụng, không để vì phát triển tín dụng quá nóng mà gây ra những tổn thất không đáng có cho NH.
Nội dung chính sách: Việc xây dựng chiến lược quản trị rủi ro từ hoạt động cho vay của các NH cần tính đến những yêu cầu sau:
Thứ nhất, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dự báo, phân tích và phòng ngừa rủi ro, tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động quản trị rủi ro. Theo đó, các NHTM Việt Nam cần đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tiếp cận Basel II và sớm triển khai Basel III trong thời gian tới.
Thứ hai, hạn chế việc tăng trưởng quá nóng về quy mô vốn và tài sản, đặc biệt là các tài sản cho vay, cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn, cần có sự kiểm soát và lộ trình chặt chẽ để hạn chế các cú sốc bất lợi khiến NH lâm vào tình trạng khó khăn, đặc biệt là các vấn đề về thanh khoản.
Thứ ba, khi tăng quy mô tài sản, các NH phải gắn với việc phân bổ danh mục sử dụng tài sản cho an toàn, hợp lý, đồng thời cần phải nâng cao năng lực quản trị rủi
ro tín dụng, hạn chế nợ xấu gia tăng nhằm khơi thông dòng vốn, bảo đảm thu hồi các khoản nợ vay, giảm thiểu thiệt hại và giữ vững lòng tin từ công chúng.
Thứ tư, cần chú trọng tăng cường công tác trích lập dự phòng và đẩy nhanh tiến độ bán, xử lý nợ xấu nhằm thu hồi nhanh chóng nguồn vốn đã cho vay, hạn chế các khoản đầu tư mạo hiểm hoặc cho vay có độ rủi ro cao.
Thứ năm, đảm bảo thanh khoản thông qua việc xây dựng một hạn mức dự trữ phù hợp, đầu tư vào giấy tờ có giá để khi cần thiết có thể xin tái chiết khấu hoặc tham gia thị trường mở. Bên cạnh đó, các NH cũng cần đa dạng hóa nguồn vốn, chú ý gia tăng khả năng tiếp cận các nguồn vốn tài trợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên NH. Niềm tin chính là “tài sản đảm bảo” để các NH có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngắn hạn này. Do đó, việc nâng cao uy tín, minh bạch trong hoạt động cũng là vấn đề mà các NH cần phải đặc biệt lưu tâm.
5.2.2.2. Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng theo chiều sâu
Cơ sở đề xuất chính sách: Phần lớn nguồn thu nhập hiện nay của các NHTM Việt Nam là từ hoạt động tín dụng, sự lệ thuộc này sẽ khiến các NH Việt Nam gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các NH nước ngoài khi mà những NH này luôn không ngừng phát triển những sản phẩm tài chính mới được tích hợp công nghệ hiện đại. Do đó, định hướng mở rộng dịch vụ NH ngoài các dịch vụ truyền thống là chiến lược mang lại triển vọng lớn, mang tính sống còn cho các NHTM Việt Nam.
Nội dung chính sách:
Để đa dạng hóa thu nhập cũng như lĩnh vực kinh doanh, điều kiện tiên quyết cần đặt ra cho các NH là cần phải thực hiện đa dạng hóa theo chiều sâu, hạn chế đầu tư dàn trải, thiếu tập trung và kém hiệu quả. Từ kết quả ước lượng mô hình nghiên cứu và thực tế cho thấy, chính sách đa dạng hóa hoạt động của các NHTM Việt Nam trong thời gian qua chưa thực sự mang lại hiệu quả và tiềm ẩn nhiều rủi ro như rủi ro thanh khoản, rủi ro đạo đức, rủi ro pháp lý, xung đột lợi ích... Nhiều bài học từ những đại án ngành NH trong thời gian qua là tiếng chuông cảnh tỉnh cho các NH khi thực hiện chiến lược đa dạng hóa. Do đó, việc đầu tư, góp vốn vào các lĩnh vực phi tài chính không phải thế mạnh thông qua mô hình các công ty con, công ty liên kết, nhất là khi đầu tư vào các doanh nghiệp chưa niêm yết, hình thành nên các mối quan hệ sở hữu chồng chéo, phức tạp cần phải được hạn chế và kiểm soát chặt chẽ. Thay vào đó, các NH nên tập trung vào phát triển những lĩnh vực thế mạnh, thực hiện chính sách đa
dạng hóa các sản phẩm dịch vụ tài chính – ngân hàng, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao hiệu quả và mở rộng mạng lưới giao dịch.
Để có thể đảm bảo được tính hiệu quả từ đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, việc đầu tiên là mỗi NH cần hình thành một bộ phận nghiên cứu chuyên trách phát triển sản phẩm. Trong đó, tập trung vào những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có đặc điểm nổi trội trên thị trường nhằm tạo sự khác biệt trong cạnh tranh, tận dụng các kênh phân phối mới để đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng và phát triển các sản phẩm dịch vụ tiếp cận với những thị hiếu mới của khách hàng. Theo đó, các dịch vụ NH điện tử hiện đại như Internet Banking, mobile Banking, Auto Banking… cần được các NH tiếp tục triển khai, đầu tư và tăng cường thêm nhiều tiện ích mới có chất lượng cao. Bên cạnh đó, các NHTM cũng cần tiếp tục nghiên cứu và triển khai các sản phẩm dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt nhằm phát huy hiệu quả và tính năng kỹ thuật của công nghệ mới. Xu hướng thanh toán trong tương lai sẽ thay đổi thói quen sử dụng tiền mặt của người dân, do đó, việc ứng dụng công nghệ nhằm đơn giản hóa các thủ tục giao dịch NH nhưng vẫn đảm bảo được độ an toàn sẽ là chìa khóa thành công cho các NH trong tương lai. Hiện nay, ngoài áp lực cạnh tranh đến từ NH đối thủ, các NHTM còn chịu sự đe dọa trực tiếp đến từ các công ty công nghệ tài chính (Fintech) đang ngày càng nở rộ cùng với sự phát triển vũ bão của công nghệ và sự gia tăng nhu cầu sử dụng các dịch vụ công nghệ của người dân. Để có thể tiếp cận nhanh và triển khai có hiệu quả các dịch vụ NH điện tử, việc liên kết với các công ty Fintech có thể được xem là một hướng đi mang tính chiến lược cho các NH.
Ngoài ra, các NHTM Việt Nam cần đa dạng hóa sản phẩm theo chiều sâu, khai thác giá trị gia tăng của sản phẩm, tăng khả năng liên kết, tích hợp giữa các sản phẩm dịch vụ nhằm tối đa hóa lợi ích cho khách hàng, tạo sự khác biệt hóa trong phân phối dịch vụ. Bên cạnh việc phát triển sản phẩm dịch vụ mới, thì đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ NH truyền thống cũng là vô cùng cần thiết, vì đây là mảng mang lại lợi nhuận chủ yếu và ổn định cho NHTM. Các NH có thể thực hiện đa dạng hóa về hình thức, kênh huy động cũng như kênh phân phối nhằm kích thích nhu cầu của khách hàng, từ đó gia tăng lượng khách hàng tiềm năng.
5.2.2.3. Nâng cao năng lực quản lý chi phí
Cơ sở đề xuất chính sách: Một trong những yêu cầu quan trọng để các NH có thể gia tăng lợi nhuận, tận dụng tối đa nguồn lực và nâng cao hiệu quả là cần phải tính đến các phương pháp tối ưu hóa chi phí trong quá trình hoạt động. Thông thường, hầu hết các NH và tổ chức tài chính sẽ cố gắng cải thiện hiệu quả chi phí bằng cách tối ưu
hóa các kênh giao dịch và triển khai ứng dụng công nghệ thông tin. Một số NH khác sẽ cố gắng thực hiện các biện pháp truyền thống như cắt giảm số lượng nhân viên và tinh gọn hóa bộ máy để giảm thiểu chi phí. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là các chiến lược truyền thống có thể không giúp các NH đạt được hiệu quả chi phí trong môi trường kinh doanh hiện đại ngày nay, hoặc sẽ không gây ra các tác động mạnh mẽ như những năm qua. Theo đó, trọng tâm của hàm ý chính sách này không đơn thuần chỉ là cắt giảm chi phí; Thay vào đó, các NH nên cố gắng nâng cao hiệu quả bằng cách thực hiện các biện pháp tối ưu hóa chi phí mang tính lâu dài và bền vững.
Nội dung chính sách: Để có thể đạt được hiệu quả chi phí, các NH có thể thực hiện các bước sau đây:
i) Chuyển đổi quy trình kinh doanh: Các NH phải nhận ra rằng chuyển đổi kinh doanh kỹ thuật số không phải là một sáng kiến chỉ dành cho thiết bị di động, mà nó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ tổ chức hoạt động của NH. Theo đó, các NH cần phải chuyển đổi toàn diện tổ chức của các quy trình kinh doanh, từ nền tảng công nghệ và hệ thống quản lý để phù hợp với các mục tiêu ngắn hạn và tầm nhìn dài hạn. Nếu NH nhận định thấy các quy trình đã lỗi thời thì cần phải loại bỏ hoặc thay thế bằng quy trình hiệu quả hơn, mang lại cho khách hàng nhiều tiện ích hơn. Thay đổi quy trình kinh doanh phải tương xứng với mức độ phát triển của khoa học công nghệ và tập trung vào việc cung cấp giá trị gia tăng cho khách hàng. Mặc dù chi phí liên quan đến việc chuyển đổi quy trình kinh doanh là không hề nhỏ, nhưng về dài hạn sẽ mang lại những lợi ích vô cùng to lớn cho các NH. Kết quả của việc chuyển đổi tổ chức kinh doanh có thể sẽ nâng cao khả năng phục vụ cho cơ sở khách hàng mở rộng, gia tăng tốc độ xử lý các khoản vay và tiền gửi, ứng dụng hệ thống quản trị rủi ro hiện đại, đơn giản hóa các quy trình và quản lý tổ chức dễ dàng.
ii) Quản lý tối ưu nhân sự: Các NH có thể áp dụng các công cụ và phương pháp sẵn có để đánh giá và quản lý hiệu suất của nhân viên, xác định nhu cầu đào tạo và khuyến khích bán chéo sản phẩm. Tiến hành tinh gọn bộ máy hoạt động với mức độ tự do hóa cao sẽ có nhiều khả năng cho phép nhân viên tập trung vào việc nâng cao trải nghiệm của khách hàng bằng cách đưa ra những lời khuyên đầu tư phù hợp, giải quyết các thắc mắc và mối quan tâm tiềm năng của khách hàng.
iii) Lựa chọn mô hình vận hành và phân phối thích hợp: Để có thể đơn giản hóa mô hình hoạt động và giảm thiểu chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng cho mạng lưới giao dịch, các NH có thể tính đến việc liên kết với các công ty cung cấp dịch vụ chia sẻ toàn cầu. Theo đó, đối tượng mà các NH cần chú ý hướng đến là các công ty Fintech, những đơn