Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 47


Ngoảnh đầu nhìn con phố người ta thắp lửa truyền nhau,

Giật mình nhận thấy ánh sáng của kiếm rực chiếu lên sao đẩu.

Dịch thơ:

Thuyền đỗ sông Ngô tuyết đã tàn, Đêm dâng hơi ấm, lạnh đà tan.

Đông qua, hương ngát mai đem tặng, Xuân đến, câu hay điệu nhịp tràn.

Nước cũ chưa về, buồn áo gấm, Sang năm rỗi việc, cứ say khan.

Ngoảnh đầu phố nhỏ truyền nhau nến, Ánh sáng rọi sao đến bàng hoàng.

吳澧溪曰非惡盛服羞未歸耳非愛甘酒喜無事耳 Ngô Lễ Khê bàn: Không phải ghét mặc y phục đẹp đẽ đàng hoàng mà thẹn thùng bởi lẽ chưa thể về được quê hương, không phải thích rượu ngon mà là mừng cho thân mình được vô sự.

阮素如曰往復元機一語道出風致悠然沈挫悠揚淡中有味

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.

Nguyễn Tố Như bàn: Cơ trời đắp đổi, một lời nói ra, phong nhã dằng dặc, sâu lắng du dương, trong cái đạm nhạt vẫn có dư vị.

25.客中元日

Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 47

一川花柳靄佳晨客況瀟然淨點塵湖海未醒羇旅夢鬢毛爭品歲時新但知弧矢奇男子不覺衣冠飭老臣篷上橫斜梅影動暗香彷彿故園春

KHÁCH TRUNG NGUYÊN NHẬT

Nhất xuyên hoa liễu ái giai thần, Khách huống tiêu nhiên tịnh điểm trần. Hồ hải vị tinh ki lữ mộng,

Mấn mao tranh phẩm tuế thời tân. Đãn tri hồ thỉ kỳ nam tử,

Bất giác y quan sức lão thần.

Bồng thượng hoành tà mai ảnh động, Ám hương phảng phất cố viên xuân. Dịch nghĩa:

NGÀY ĐẦU NĂM NƠI ĐẤT KHÁCH

Đầy sông hoa liễu bay, buổi sáng trời quang tạnh thật đẹp,

Tình cảnh của khách thư thái sạch bụi trần. Biển hồ vẫn chưa tỉnh cơn mộng lữ thứ, Mái tóc bạc tranh mới với tháng năm.

Chỉ biết rằng cung tên làm bậc nam tử trở nên kỳ tài,

Nào hay áo mão chỉ là thứ che đậy người bầy tôi già cả.

Trên mái thuyền lá, bóng mai nghiêng khẽ đung đưa,

Hương thơm thoang thoảng như ở khu vườn cũ trong mùa xuân.

Dịch thơ:

Một sông hoa liễu đẹp muôn phần, Tình khách âu sầu, bụi lắng lâng. Hồ biển chưa tàn cơn lữ thứ,

Tóc mai năm hết bạc vài phân. Cung tên, rằng biết tài nam tử, Áo mão, đâu hay bịp lão thần.

Bóng động mai nghiêng trên mái cỏ, Hương thầm phảng phất cõi vườn xuân.

26.夜寒偶作1

滞雨敲冰冷轉衾爐烟欲燼五更心春風爲送鄉情燠晴雪偏憐旅夢深催枕有聲銅漏迸禦寒無力酒香沈插瓶斜照梅花影思入陪遊玩上林

DẠ HÀN NGẪU TÁC

Trệ vũ xao băng lãnh chuyển khâm, Lô yên dục tẫn ngũ canh tâm.

Xuân phong vị tống hương tình úc, Tình tuyết thiên liên lữ mộng thâm. Thôi chẩm hữu thanh đồng lậu tính, Ngự hàn vô lực tửu hương trầm.

Sáp bình tà chiếu mai hoa ảnh,

Tứ nhập bồi du ngoạn Thượng Lâm.

Dịch nghĩa:

CHỢT LÀM THƠ TRONG ĐÊM LẠNH

Mưa dầm gõ xuống băng giá, lạnh lồng vào áo chăn,

Lò hương sắp tàn giữa đêm năm canh một tấm lòng.

Gió xuân sưởi ấm gợi mối tình quê hương, Tuyết sáng riêng thương giấc mộng của khách. Bên gối ngủ có tiếng đồng hồ rỏ giọt thánh thót,

Cốc rượu lắng hương nên chẳng đủ sức xua cái lạnh.

Bóng mai cắm trong bình nến rọi nghiêng nghiêng, Gợi hứng muốn lên chơi cảnh Thượng Lâm.

Dịch thơ:

Mưa dầm khăn áo giá băng xông, Hương lụn năm canh một tấm lòng. Gió tiễn tình quê nồng nỗi nhớ,


1 Nguyên chú: 時癸亥春正月望後作 Bài thơ làm sau đêm rằm tháng giêng, mùa xuân Quý Hợi.


Tuyết thương mộng khách đượm niềm trông. Đồng hồ nước giọt, xua cơn ngủ,

Chén rượu hương phai, thấy lạnh lòng. Mai cắm trong bình nghiêng bóng rọi, Thượng Lâm muốn dạo hứng dâng nồng.


吳澧溪曰漏能催枕聲促矣酒不禦寒力微矣促漏必不能成夢微酒必不能得醉寒夜漫漫何以消遣此情此景似覺無聊

Ngô Lễ Khê bình: Giọt nước đồng hồ có thể xua giấc ngủ, tiếng nước giọt gấp rút lắm vậy; rượu không ngăn nổi cơn lạnh, men nồng không đủ độ vậy; giọt nước đồng hồ rỏ gấp ắt không thể thành mộng, rượu nhạt ắt không thể làm người say; đêm lạnh đằng đẵng, lấy gì tiêu khiển, tình ấy cảnh ấy như khiến ta cảm được nỗi chán ngán của tác giả.


27.客中遇諱日感作两度年華萬里行 家情國事半經營 桑蓬易足平生志 香火難供一寸誠 揮淚自羞豺獺念 低頭空聽鷓鴣聲 整容參望虛靈鑒 霜鬂愁催鏡裡盈

KHÁCH TRUNG NGỘ HUÝ NHẬT CẢM TÁC

Lưỡng độ niên hoa vạn lý hành, Gia tình quốc sự bán kinh doanh. Tang bồng dị túc bình sinh chí,

Hương hoả nan cung nhất thốn thành. Huy lệ tự tu sài lãn niệm,

Đê đầu không thính giá cô thanh. Chỉnh dung tham vọng hư linh giám, Sương mấn sầu thôi kính lý doanh. Dịch nghĩa:

GIỮA ĐẤT KHÁCH GẶP NGÀY GIỖ, CẢM XÖC LÀM THƠ

Hai mùa xuân qua, ta vẫn ở nơi xa vạn dặm, Tình nhà việc nước mới trải qua một nửa.

Bình sinh chí tang bồng dễ thành,

Một tấc lòng thành nhưng khó việc khói hương. Gạt lệ tự thẹn cho lòng hiếu của mình thua loài sói, Cúi đầu buồn nghe tiếng đa đa vẳng.

Sửa áo mão bái lạy nơi xa, mong hương linh chứng giám,

Soi gương nỗi sầu làm hai mái tóc trắng bạc đầy.

Dịch thơ:

Hai độ niên hoa vạn dặm đường, Tình nhà việc nước, vẫn còn vương. Cuộc đời cung kiếm âu dễ vẹn,

Một tấc lòng thành khó khói hương.

Gạt lệ thẹn cùng loài cáo sói,

Cúi đầu nghe vẳng tiếng quê hương. Xa nghiêm mình lạy, vong linh chứng, Trước kính sầu xui tóc điểm sương.


吳澧溪曰君子有終身之喪父母之諱日也而客中適遇此日雲天萬里枌梓一方顧毛水而無從恨關山之難縮家情國事苦况平分不覺桑蓬之志易足而若灰香火之誠難供而自鬱想物類之祭魚祭獸揮涕空慙聽鳥聲之行不得哥低頭莫奈於是整容參拜望見鑒於虛靈對鏡催愁只自嗟夫老境此篇辭意溫雅血脈聯絡總因孝念呵成全無文飭行役君子宜各寫一通

Ngô Lễ Khê bình: Người quân tử có tang suốt đời ấy là ngày giỗ cha mẹ, mà giữa đường xa xôi lại gặp phải ngày ấy, trời mây muôn dặm, quê hương một phương, dòng nước khó làm tan nỗi hận, quan san khó nén được, việc nước tình nhà, nỗi khổ ngang nhau, nào biết chí tang bồng dễ thoả, mà đốt nén hương tỏ lòng thành khó thay, mới thấy uất buồn nhớ những món đồ tế cúng thì bày cá bày thịt tế, gạt lệ thẹn nghe tiếng chim kêu thì không đi được, cúi đầu nào biết làm gì, thế rồi sửa soạn dung mạo tham bái mong vong linh chứng giám, soi gương sầu giục chỉ biết tự than vãn cảnh già, bài thơ này ý lời ôn nhã, huyết mạch liền lạc, đều vì lòng hiếu mà nên thơ, cả bài không thấy dấu vết tô vẻ, người quân tử đi làm việc nơi xa nên mỗi bài đều viết một mạch.

阮素如曰難易二字似有深意句法圓活出自天趣 Nguyễn Tố Như bình: Hai chữ “khó” “dễ” như có thâm ý, cú pháp tròn trịa trôi chảy tự nhiên.


29.又步鄭艮齋元韻擕步栖霞入洞扉 傳燈一點尙熹微 燠囘鹤夢烟初散 曉送鯨音露正晞 巖竹風高清影瘐 谷闌1雨潤素心肥山僧不識南人服 笑認蓬萊羽客飛

HỰU BỘ TRỊNH CẤN TRAI NGUYÊN VẬN

Huề bộ Thê Hà nhập động phi, Truyền đăng nhất điểm thượng hi vi. Úc hồi hạc mộng yên sơ tán,

Hiểu tống kình âm lộ chính hy. Nham trúc phong cao thanh ảnh sấu, Cốc lan vũ nhuận tố tâm phì.


1 Nguyên văn khắc lan , đúng ra phải là chữ này.


Sơn tăng bất thức nam nhân phục, Tiếu nhận Bồng Lai vũ khách phi.1 Dịch nghĩa:

LẠI LÀM THEO NGUYÊN VẦN THƠ TRỊNH CẤN TRAI

Cùng nhau đi lên Thê Hà vào cửa động, Một ngọn đèn truyền còn sáng lập loè. Hơi ấm vào giấc mơ hạc, khói vừa tan,

Tiếng chuông sớm vọng vào, sương đang mờ. Trúc núi trong gió cao, bóng trúc gầy,

Lan trong hang núi thấm mưa, lòng lan mập. Nhà sư không quen với y phục người nước Nam, Cười tưởng khách là tiên ở Bồng Lai.

Dịch thơ:

Dạo bước Thê Hà, cửa động bày, Truyền đăng một ngọn sáng lung lay. Đêm nồng giấc hạc, sương tan tác, Sáng vẳng chuông kình, móc phất bay. Trúc núi gió lùa, nghiêng dáng gộc, Lan rừng mưa đượm, ngát lòng say.

Phương nam áo mão, sư không biết, Cười tưởng Bồng Lai tiên đến đây.

阮素如曰語有禅理

Nguyễn Tố Như nói: Lời có lẽ thiền.

31.鸕鷀

能言鸚鵡古來珍誰愛鸕鷀事主人日爲漁家生計足時驚水族業寃頻飛禽有類分毛羽潛物無端認甲鱗若使世人知早畜澤梁今亦不征巡

LÔ TƯ2

Năng ngôn anh vũ cổ lai trân, Thuỳ ái lô tư sự chủ nhân.

Nhật vị ngư gia sinh kế túc,

Thời kinh thuỵ tộc nghiệp oan tần. Phi cầm hữu loại phân mao vũ, Tiềm vật vô đoan nhận giáp lân.

Nhược sử thế nhân tri tảo súc,

Trạch lương kim diệc bất chinh tuần.

Dịch nghĩa: CHIM CỐC

Chim vẹt có thể nói chuyện được, xưa nay quý, Có ai thích chim cốc biết phụng sự chủ nhân?


1 Vũ khách: khách mặc áo lông chim, chỉ tiên, đạo sĩ. Ở đây có ý chỉ sứ đoàn Việt Nam mặc áo tay dài như tiên ở Bồng Lai.

2 Lô tư: chim cốc, còn gọi là con cồng cộc, ô quỵ, thuỵ lão nha, chàng

cốc. Loài chim này quen thuỵ tính, lại biết lặn bắt cá ăn. Khi bị đuổi bắt, nó có thể lặn xuống nước hàng mươi để trốn tránh. Vì cồng cộc có lông đen tuyền nên gọi là quạ nước, quỵ đen.

Mỗi ngày làm việc giúp nhà chài, nên sinh kế cũng đủ,

Thường thường làm loài cá nước hoảng sợ, oan nghiệp kết thêm.

Loài chim biết bay cũng chia loài có lông mao, lông vũ,

Những loài chìm sâu khó biết thì nhìn vào vẩy với mai.

Nếu như khiến người đời biết mà nuôi sớm,

Thì nay nó cũng chẳng phải đi ở xa nơi đầm trạch thế kia.

Dịch thơ:

Vẹt nói tiếng người, xưa hiếm thay, Ai thương chim cốc giúp nhà chài? Ngày làm vì chủ, mưu sinh đủ, Khiến hoảng cá rùa, oan nghiệp vay. Vật lặn khôn nhìn, mai vẩy nhỉ,

Loài bay dễ biết, vũ mao ngay! Người đời như biết nuôi mày sớm, Đầm trạch từ đây khỏi đoạ đày!


吳澧溪曰世固未有才而不爲人用者鸕鷀飛禽也而制於人終日浮沈水中爲主人捕漁雖千丈之淵百丈之潭而魚無所逃其受勞多而得食無幾主人者豈能制彼之命哉直以均其勞逸而不盡其力調其饑飽而不專其利故無樊籠而彼自不飛無程勒而彼自不懈不然以善啄之口嘴豈難充易飽之膓以能飛之羽毛豈甘爲窮主之用才無大小皆可使物無善惡皆可制得其術者龍擾虎馴失其術者妻離子叛

Ngô Lễ Khê bàn: Ở đời chưa có chuyện kẻ có tài mà không được người ta dùng đến. Cồng cộc là loài chim biết bay, mà bị người ta quản chế, suốt ngày lặn ngụp trong dòng nước để bắt cá cho chủ, dẫu vực sâu ngàn trượng, đầm sâu trăm trượng thế mà loài cá cũng không biết trốn vào đâu. Chim cốc làm lụng khổ nhọc mà được ăn thì có mấy, người chủ vì sao có thể nắm được đời sống của nó? ấy bởi, làm cân bằng sự khó nhọc và nhàn nhã của nó mà không làm kiệt sức của nó, điều hoà cái no cái đói của nó nên nó không ham lợi riêng, vì vậy chẳng cần lồng cũi mà nó cũng chẳng bay đi, không cần sắp xếp hối thúc mà nó cũng không lười biếng. Nếu không vì cái mỏ của nó giỏi việc bắt cá thì khó mà làm no cái bụng mình và nó là loài chim biết bay há cam chịu bị người chủ sai khiến. Tài không phân biệt lớn nhỏ đều có thể dùng, vật không phân biệt lành dữ đều có thể quản thúc. Người được cái thuật ấy thì rồng cọp cũng theo, mà mất cái thuật ấy thì vợ con cũng xa lìa.

阮素如曰世珍鸚鵡以其能言耳鸕鷀事人以身終日劬勞不遺餘力不言不語誰則知之一語中令人無限感嘆


Nguyễn Tố Như bàn: Đời chuộng chim vẹt vì nó biết nói, chim cốc biết đem thân phụng sự chủ mình thì suốt ngày cực nhọc không còn hơi sức, không nói không rằng thì ai mà biết. Chỉ một lời thơ mà khiến người ta cảm thán vô cùng.


32.桂林解纜次韻 1錦帆高挂挹清飊晚趂平灘聽水潮咫尺天庭來玉詔百千里路放闌橈望窮嶺樹鄉關異吟罷江梅歲月銷斾影日光新國號遙分仙寵耀南朝

QUẾ LÂM GIẢI LÃM THỨ VẬN2

Cẩm phàm cao quải ấp thanh tiêu, Vãn nhĩ bình than thính thuỵ triều. Xích chỉ thiên đình lai ngọc chiếu, Bách thiên lý lộ phóng lan nghiêu. Vọng cùng lĩnh thụ hương quan dị, Ngâm bãi giang mai tuế nguyệt tiêu. Bái ảnh nhật quang tân quốc hiệu, Dao phân tiên sủng diệu Nam triều. Dịch nghĩa:

RỜI THUYỀN Ở QUẾ LÂM, THEO THỨ VẬN

Buồm gấm giương cao lộng gió,

Chiều nơi bến lặng, nghe tiếng thuỵ triều. Triều đình gần bên ban chiếu xuống, Trăm ngàn dặm đường buông mái chèo.

Nhìn khắp núi non, cây cối, xóm làng đều xa lạ, Ngâm thơ xong bên bờ sông mai, thấy năm tháng đã hết.

Dưới ánh nắng bóng cờ bay mang quốc hiệu mới, Nơi xa được sủng như tiên, làm rạng rỡ triều Nam. Dịch thơ:

Buồm gấm giương cao, lộng gió ngàn, Bến chiều lặng sóng tiếng triều vang. Chèo lan buông mái, xa ngàn dặm, Chiếu ngọc thiên đình, cách tấc gang. Cây núi trông vời nơi đất lạ,

Mai sông ngâm ngợi tháng năm tàn. Nắng soi quốc hiệu cờ phơi phới, Được sủng, Nam triều cũng vẻ vang.


33. 鸕鷀塘夜泊 次 韻鸕鷀塘口枕晴山


1 Nguyên chú: 時得命在桂林省癸亥夏四月奉詔詣上京初革國號旗題越南國使 Lúc bấy giờ được lệnh chờ ở Quế Lâm, tháng 4 năm

Quý Hợi (1803) phụng chiếu lên kinh, vừa mới đổi tên nước, trên cờ đề là sứ đoàn nước Việt Nam.

2 Bài này tác giả làm theo vần của bài Quế Lâm giải lãm của Trịnh Hoài Đức.

一繫仙槎傍竹灣放筏漁人敎鳥宿迩墟野婦串魚還宦情淡蕩江流潔客思低徊漏轉閑高捲篷窗天色曙白雲渺渺水潺潺

LÔ TƯ ĐƯỜNG DẠ BẠC THỨ VẬN3

Lô Tư đường khẩu chẩm tình san, Nhất hệ tiên tra bạng trúc loan.

Phóng phiệt ngư nhân giao điểu túc, Nhĩ khư dã phụ xuyến ngư hoàn.

Hoạn tình đạm đãng giang lưu khiết, Khách tứ đê hồi lậu chuyển nhàn.

Cao quyển bồng song thiên sắc thự, Bạch vân miểu miểu thuỵ sàn sàn. Dịch nghĩa:

THEO VẦN BÀI ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở ĐẦM LÔ TƯ

Cửa bờ Lô Tư gối vào núi non quang tạnh, Buộc thuyền nghỉ ở bên cạnh bờ trúc.

Ông chài thả bè, chim về rừng nghỉ,

Người đàn bà quê nơi gò bên, mang xâu cá trở về. Tình quan bình đạm như dòng sông trong trôi chảy, Ý khách bồi hồi theo giọt đồng hồ rơi.

Cuốn rèm cửa thuyền lên cao, màu trời sáng sủa, Mây trắng bay miên man, dòng nước chảy dạt dào. Dịch thơ:

Cửa bến Lô Tư gối núi ngàn, Bè tiên ghé nghỉ trúc mơn man. Lão chài thả mặc bè chim đỗ, Cô gái quay về xiên cá ngon.

Đạm bạc tình quan dòng nước chảy, Bồi hồi ý khách giọt đồng khan.

Cửa bồng cuốn hết, màu trời sáng, Mây trắng bồng bềnh, nước chứa chan.


吳澧溪曰漁人何閒野婦何忙豈教鳥宿者胸中已無物我串魚還者念頭尙有夫兒一忙一閒對得亦覺有趣

Ngô Lễ Khê bình: Lão chài nhàn sao, gái quê bận sao! Người bỏ mặc chim chóc nghỉ đỗ, ấy trong lòng đã không phân biệt là ta hay là vật, kẻ xiên cá trở về, ấy trong suy nghĩ vẫn còn có chồng có con. Một người bận bịu, một người thong dong, mà đối được, cũng cảm thấy thật thú vị.


34.全州客中端午臘月梅花五月萱


3 Thứ vận: hoạ thơ theo thứ tự các vần trong bài thơ gốc, gọi là thứ vận. Thể này bắt đầu từ Nguyên Chẩn và Bạch Cư Dị đời Đường. Bài thơ này tác giả làm theo vần bài Lô Tư đường dạ bạc của Trịnh Hoài Đức.


謾將景况說寒暄黃巵半酌瘳鄉思白扇頻開憶主恩使節迎祥當艾葉征鞭却癖勝蒲根秋來國事營成後月艶歸舟玉滿樽

TOÀN CHÂU KHÁCH TRUNG ĐOAN NGỌ

Lạp nguyệt mai hoa, ngũ nguyệt huyên, Mạn tương cảnh huống thuyết hàn huyên. Hoàng chi bán chước liêu hương tứ, Bạch phiến tần khai ức chủ ân.

Sứ tiết nghênh tường đương ngải diệp, Chinh tiên khước tịch thắng bồ căn.

Thu lai quốc sự doanh thành hậu, Nguyệt diễm quy chu ngọc mãn tôn. Dịch nghĩa:

TIẾT ĐOAN NGỌ LÀM KHÁCH Ở TOÀN CHÂU

Hoa mai tháng chạp, cỏ huyên trong tiết tháng năm,

Chớ đem cảnh trạng bây giờ mà nói chuyện cùng nhau.

Nhấp chén rượu hoa vàng, để an ủi nỗi nhớ quê hương,

Thường mở chiếc quạt trắng ra, lòng nhớ đến ơn chúa.

Đi sứ, đón tết đoan ngọ bằng cờ tiết thay cho lá ngải,

Ruổi ngựa nơi xa, xua nỗi phiền muộn trong lòng hơn cả dùng cỏ bồ.

Sau khi mùa thu đến, làm xong việc nước,

Trên thuyền về trong ngày trăng đẹp chén ngọc rượu tràn.

Dịch thơ:

Đoan ngọ huyên nồng, tháng chạp mai, Đừng đem cảnh huống vội phô bày.

Nhớ quê quay quắt nâng ly đắng, Luyến chúa mơ màng mở quạt xoay. Lá ngải đón hên, bằng sứ tiết,

Rễ bồ xua muộn, có roi đây.

Thu sang, việc nước vẹn toàn cả, Trăng sáng thuyền về rượu ngát say.


吳澧溪曰重在持節故艾葉爲輕樂在揮鞭故蒲根無用

Ngô Lễ Khê bàn: Xem trọng việc cầm cờ tiết đi sứ nên lá ngãi là thường, vui ở việc quất roi ruổi ngựa đi sứ nên rễ bồ cũng chẳng cần chi.

阮素如曰錯錯落落小家不能道亦不敢道語有温厚

Nguyễn Tố Như bàn: Đan xen lẫn lộn, kẻ tiểu gia chẳng thể nói, mà cũng không dám nói, lời thơ ôn hậu.


35.又次艮齋韻一片星槎萬里山乾坤無處不爲閑遙傾葵影遊燕壁惹帶荷香入楚關風爲石榴然舊燼雨憐湘竹洗餘潸舟中次第筳蒲飲不在朝班亦使班

HỰU THỨ CẤN TRAI VẬN

Nhất phiến tinh tra vạn lý san, Càn khôn vô xứ bất vi nhàn.

Dao khuynh quỳ ảnh du Yên bích, Nhạ đới hà hương nhập Sở quan.

Phong vị thạch lưu (lựu) nhiên cựu tẫn, Vũ liên Tương trúc tẩy dư san.1

Chu trung thứ đệ diên bồ ẩm, Bất tại triều ban diệc sứ ban. Dịch nghĩa:

LẠI LÀM THEO VẦN THƠ CỦA CẤN TRAI

Một chiếc thuyền vượt muôn ngàn núi non, Đất trời không nơi nào là không nhàn.

Xa xa nghiêng bóng hoa quỳ vào vách Yên, Mang theo làn hương sen vào cửa Sở.

Gió vì thạch lựu khơi lên đóm than cũ,

Mưa thương trúc đốm bên sông Tương, gội sạch những dòng lệ thừa.

Trong thuyền theo thứ tự mở tiệc rượu bồ,

Không phải ở nơi triều đình thì cũng là nơi thuyền sứ.

Dịch thơ:

Một mảnh bè sao vượt dặm ngàn, Đất trời khắp chốn thật an nhàn.

Xa nghiêng bóng nhật qua Yên bích, Mang đượm hương sen đến Sở quan. Thạch lựu gió lùa khơi đóm lửa, Trúc Tương mưa rửa gội màu tang. Trong thuyền bồ tửu chia thù tạc, Chẳng ở triều ban cũng sứ ban.

阮素如曰帶荷入楚得之騷經唐人風格

Nguyễn Tố Như bàn: Mang đượm hương sen vào đất Sở, đạt được ý của Li tao, có phong cách của người thời Đường.


1 Tương trúc: trúc bên sông Tương, còn gọi là hoàng trúc, trúc ở nơi này có màu vàng lốm đốm, tương truyền là do nước mắt của Nga Hoàng và Nữ Anh khóc thương vua Thuấn làm vấy vào trục bên sông Tương nên có màu như thế.


36.題湘山寺

江天極望漫勞神偶入禪關半珥塵妙塔空畱無量骨法輪已轉不生身雲幪楚澤曇花湧鍚掛湘山色界新佛教原來何異諦亦將忠孝渡迷津

ĐỀ TƯƠNG SƠN TỰ

Giang thiên cực vọng mạn lao thần, Ngẫu nhập thiền quan bán nhĩ trần. Diệu tháp không lưu vô lượng cốt, Pháp luân dĩ chuyển bất sinh thân. Vân mông Sở trạch đàm hoa dũng, Tích quải Tương sơn sắc giới tân. Phật giáo nguyên lai hà dị đế?

Diệc tương trung hiếu độ mê tân.

Dịch nghĩa:

ĐỀ THƠ CHÙA TƯƠNG SƠN

Nhìn khắp trời sông cũng mệt thần, Chợt đi vào cửa thiền sạch bụi trần.

Tháp Phật còn trơ xương cốt của bậc vô lượng, Bánh xe pháp đã chuyển xoay, thân bất sinh bất diệt.

Mây giăng đầm Sở, hoa đàm nở,

Gậy thiền dậm núi Tương, cõi sắc mới mẻ. Đạo Phật vốn không có chân lý nào khác,

Cũng đem lòng hiếu trung cứu độ mọi người ra khỏi bờ mê.

Dịch thơ:

Trông khắp non sông cũng mệt thần, Cửa thiền chợt đến lắng hồng trần. Cốt xương vô lượng, lưu linh tháp, Thân hoá bất sinh, chuyển pháp luân. Trượng dậm non Tương, phô cõi sắc, Mây che đầm Sở, nở hoa đàm.

Chung nguồn Phật giáo đâu gì khác, Trung hiếu cứu người khỏi bến sân.

吳澧溪曰此句若與韓公辨省得佛骨表許多筆力 Ngô Lễ Khê bàn: câu này như đem so với bài biểu Can việc đón rước Phật cốt của Hàn Dũ thì bút lực mạnh hơn nhiều.

阮素如曰如來心印不與儒者異道

Nguyễn Tố Như bàn: Tâm ấn của Như Lai cũng không khác với nhà Nho.


37.又步鄭艮齋元韻十一毫光放楚南 慈風尙在寶陀龕 飛袈有跡傳來世

慧骨無量証古庵偶泛仙槎豋彼岸何妨儒履歷優曇幾千載事幾千里定有前因幸一參

HỰU BỘ TRỊNH CẤN TRAI NGUYÊN VẬN

Thập nhất hào quang phóng Sở nam, Từ phong thượng tại Bảo Đà kham. Phi ca hữu tích truyền lai thế,

Tuệ cốt vô lương chứng cổ am. Ngẫu phiếm tiên tra đăng bỉ ngạn, Hà phương nho lý lịch ưu đàm.

Kỵ thiên tải sự kỵ thiên lý,

Định hữu tiền nhân hạnh nhất tham.

Dịch nghĩa:

LẠI LÀM THEO NGUYÊN VẬN THƠ TRỊNH CẤN TRAI

Mười một ánh hào quang toả xuống vùng Sở nam, Gió từ bi vẫn còn ở khám Bửu Đà.

Y bát vẫn còn dấu truyền đến đời sau,

Xương cốt vô lường vẫn còn chứng nơi am miếu cổ.

Bất chợt thuyền sứ lên bờ bên kia,

Nào ngại gót giày nhà nho bước trên hoa ưu đàm. Chuyện cách mấy ngàn năm, nơi xa mấy ngàn dặm,

Hẳn có nhân duyên kiếp trước mới may mắn gặp nơi này.

Dịch thơ:

Hào quang rọi khắp Sở Nam loà Gió mát từ bi lộng Bửu Đà.

Còn dấu cà sa truyền hậu thế, Vô lường cốt tuệ giữa lăng già. Bè tiên, bờ giác, tình cờ đến,

Giày Khổng, hoa đàm, chẳng ngại qua. Chuyện mấy ngàn năm, xa vạn lý, Nhân duyên chắc có mới gặp a!

阮素如曰起句陡然光芒四射不可正視

Nguyễn Tố Như bàn: Câu khởi cao vời, ánh sáng chói lọi bốn bề, không dám nhìn thẳng.


39.瀟湘舟行雜興四首其一夜酒興

寒燈燒白日疏雨洗黃昏竹洒湘妃淚江流楚客魂閒雲歸古峒新月弔孤村回首鄉關異呼童且滿樽


TIÊU TƯƠNG CHU HÀNH TẠP HỨNG TỨ THỦ

KỲ NHẤT DẠ TỬU HỨNG

Hàn đăng thiêu bạch nhật, Sơ vũ tẩy hoàng hôn.

Trúc sái Tương phi lệ, Giang lưu Sở khách hồn. Nhàn vân quy cổ động, Tân nguyệt điếu cô thôn. Hồi thủ hương quan dị, Hô đồng thả mãn tôn.

Dịch nghĩa:

ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG TIÊU TƯƠNG LÀM BỐN BÀI TẠP HỨNG

1. HỨNG RƯỢU ĐÊM Ngọn đèn lạnh thiêu ban ngày, Mưa nhẹ gội bóng hoàng hôn. Trúc vấy lệ Tương phi,

Dòng sông trôi hồn người nước Sở. Mây nhàn nhã bay về động cũ,

Bóng trăng non treo trên xóm thôn cô lẻ. Quay đầu nhìn quê hương xa lạ,

Gọi trẻ rót rượu thật đầy.

Dịch thơ:

Đèn tàn thiêu nắng nhạt, Mưa lạnh gội hoàng hôn. Giọt lệ Tương vấy trúc, Cõi hồn Sở trôi suông.

Mây nhàn về động cũ,

Trăng khuyết giữa làng thôn. Ngảnh mặt, quê hương lạ, Gọi đồng rót rượu luôn.


吳澧溪曰更闌人定萬籟無聲旅況鄉情越想越惱故夜宜酒興

Ngô Lễ Khê bàn: Canh tàn người lặng lẽ, thiên nhiên tĩnh mịch, nỗi niềm lữ khách xa quê, càng nghĩ càng não lòng, nên đêm tối khởi hứng uống rượu.


40.其二朝畫興曉看篷窗外 江天景色幽 村姑粧地面 野叟剃山頭 渺渺白雲捲 滔滔碧水流 呼童開畫譜 點染寫松楸

KỲ NHỊ TRIÊU HOẠ HỨNG

Hiểu khán bồng song ngoại, Giang thiên cảnh sắc u.

Thôn cô trang địa diện,

Dã tẩu thế sơn đầu.

Miểu miểu bạch vân quyển, Thao thao bích thuỵ lưu.

Hô đồng khai hoạ phả, Điểm nhiễm tả tùng thu. Dịch nghĩa:

2. HỨNG VẼ BUỔI SÁNG

Sáng ngắm nhìn ngoài cửa thuyền, Cảnh sắc trời sông thanh tịch.

Cô gái thôn quê làm đẹp mặt đất, Lão già quê bừa nơi đầu non.

Xa xa mây trắng cuộn bay,

Dòng nước xanh cuồn cuộn chảy. Gọi trẻ mang giấy bút,

Chấm mực phác vẽ cảnh cây thu, cội tùng.

Dịch thơ:

Song thuyền mai sớm ngóng, Thanh vắng cảnh trời sông. Ông lão cày đồi trọc,

Gái quê điểm đất hồng. Xa xa mây trắng cuốn,

Cuồn cuộn nước xanh dong. Gọi trẻ bày tranh vẽ,

Thu, tùng mấy nét xong!


吳澧溪曰百感未起情明在躬筆墨精良神思飄蕩故朝宜畫興

Ngô Lễ Khê bàn: Trăm nỗi niềm chưa khởi hết, mà tình như giương cung, bút mực tinh tế đẹp đẽ, thần tứ phiêu đãng, nên sáng sớm nổi hứng vẽ tranh.


41.其三午茶興午倦不成夢 臨流濯足頻 解衣驚作主 傾蓋謾逢人 夏暑若無酷 南風未當仁 茶甌能瀉悶 呼稚汲江濱

KỲ TAM NGỌ TRÀ HỨNG

Ngọ quyện bất thành mộng, Lâm lưu trạc túc tần.

Giải y kinh tác chủ,

Khuynh cái mạn phùng nhân. Hạ thử nhược vô khốc,

Nam phong vị đáng nhân. Trà âu năng tả muộn,

Hô trĩ cấp giang tân.

Dịch nghĩa:

3. HỨNG TRÀ BUỔI TRƯA Trưa mệt ngủ không thành giấc,


Mấy phen xuống dòng nước rửa chân. Cởi áo thì sợ mình là chủ,

Nghiêng lọng mặc kệ gặp người ta. Nắng hè nếu như không nóng, Gió nam chưa chắc làm điều nhân.

Chén trà có thể giải cơn phiền muộn, Gọi trẻ hầu múc nước đầu bến sông. Dịch thơ:

Trưa mệt ngủ không thành giấc, Vào sông mấy độ rửa chân.

Gặp người cũng thường nghiêng lọng, Làm chủ luôn ngại cởi trần.

Hè nắng nếu mà không nóng, Gió nam chưa hẳn đáng nhân. Chén trà xua tan mệt nhọc,

Múc nước, tiểu đồng, mau khuân!


吳澧溪曰臨流濯情解衣納涼薰風徐來暑若失故午宜茶興

Ngô Lễ Khê bàn: Vào dòng nước để giãi bày mối tình, cởi áo để hóng mát, gió mát hiu hiu thổi đến, cái nắng nóng dường như cũng mất đi, nên chi buổi trưa khởi hứng uống trà.

阮素如曰句法似杜而別有風旨

Nguyễn Tố Như bàn: Cú pháp như Đỗ Phủ, mà phong vị khác nhau.


42.其四晚詩興村落煙初聚 晴江暑漸清 牛歸芳草潤 漁唱晚風輕 釜覆山頭峡 練鋪水面平 呼童供筆墨 索韻賦騷情

KỲ TỨ VÃN THI HỨNG

Thôn lạc yên sơ tụ,

Tình giang thự tạm thanh. Ngưu quy phương thảo nhuận, Ngư xướng vãn phong khinh. Phủ phúc sơn đầu giáp,

Luyện phô thuỵ diện bình. Hô đồng cung bút mặc, Sách vận phú tao tình.

Dịch nghĩa:

4. HỨNG THƠ CHIỀU HÔM Xóm làng khói chiều bay tụ lại,

Sông quang tạnh, bóng nắng nhạt dần. Trâu về chuồng khiến bờ cỏ thơm ướt đẫm,

Tiếng hát của người đánh cá làm làn gió chiều hây hây.

Ngọn núi như chiếc nồi úp xuống,

Mặt nước bằng lặng như dòng lụa phơi. Gọi trẻ nhỏ đem bút mực ra,

Tìm vần tả nỗi tình tao nhã xa xôi.

Dịch thơ:

Khói chiều quyện nơi thôn xóm, Ánh nắng dần nhạt sông thanh. Tiếng hát người chài gió nhẹ, Trâu về bờ cỏ ướt xanh.

Đầu non nhỏ như nồi úp, Mặt nước bằng tựa lụa lanh. Trẻ nhỏ mau đem bút mực, Tìm vần bày giãi tâm tình.


吳澧溪曰返照欲落新潮正生牛背笛聲一山一水一雲一樹儘可入料故晚宜詩興

Ngô Lễ Khê bàn: Ánh mặt trời phản chiếu sắp tàn, thuỵ triều lại dâng, tiếng sáo trỗi trên lưng trâu, non núi, sông nước, mây trời, cây cối, đều có thể làm thơ, cho nên buổi chiều khởi hứng làm thơ.


44.題扇贈徐師爺弧矢男兒志

鬚眉可羨卿囊中錐未脫匣裡劍空鳴桃郡滋生色琹堂鼓暗聲遭逢非一話心志是分明

ĐỀ PHIẾN TẶNG TỪ SƯ GIA

Hồ thỉ nam nhi chí, Tu mi khả tiện khanh.

Nang trung chuỳ vị thoát, Giáp lý kiếm không minh. Đào quận tư sinh sắc, Cầm đường cổ ám thanh. Tao phùng phi nhất thoại, Tâm chí thị phân minh.

Dịch nghĩa:

ĐỀ QUẠT TẶNG TỪ SƯ GIA

Chí làm trai tang bồng hồ thỉ,

Đấng mày râu ai cũng mến mộ ông. Như cái chuỳ trong túi vẫn chưa thò ra, Tựa thanh kiếm trong hộp cứ kêu vang. Ở quận Đào làm tăng thêm sức sống,

Nơi Cầm đường, gảy đàn, tiếng thầm vang. Gặp gỡ nhau chẳng cần nói một lời,

Mà tâm chí hiểu thấu rõ ràng nhau.

Dịch thơ:

Làm trai luống thoả chí tang bồng, Bao đấng mày râu mến mộ ông.

Giữa túi chày kia còn chửa lộ, Trong bao kiếm ấy vẫn kêu ong.

Xem tất cả 409 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí