Dòng suối chảy trên hang động xanh tựa như bức màn sao thả xuống.
Cơ thiền vi diệu được đón về tịnh độ.
Pháp Phật nghiêm trang, ngăn được cả thành sầu.
Ta đã có lòng nghe tiếng khánh gõ vang,
Càng chấp nhặt vào sắc tướng, e làm tổn hại đức liêm.
Dịch thơ:
Lòng về sá kể nỗi gian lao,
Cổ tích danh lam cứ ngắm nào. Cây ấp lầu hoa, buông trướng báu, Suối trào động biếc, thả màn sao. Đón về cõi tịnh, thiền cơ diệu,
Ngăn được thành sầu, Phật pháp cao. Ta đã một lòng nghe tiếng khánh,
Có thể bạn quan tâm!
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 42
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 43
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 44
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 46
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 47
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 48
Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.
E tham sắc tướng, hại liêm sao!
162.
30.
萬里歸心莫啟緘仙舟坐擬出塵函山門遠近分夷夏水鑑澄清辨聖凡翠竹吹寒風滿袖蒼松冷濕露沾衫任人描畫湖南北故國歸余一片帆
Vạn lý quy tâm mạc khải giam, Tiên chu toạ nghĩ xuất trần hàm. Sơn môn viễn cận phân Di Hạ,
Thuỵ giám trừng thanh biện thánh phàm. Thuý trúc xuy hàn phong mãn tụ, Thương tùng lãnh thấp lộ triêm sam, Nhậm nhân miêu hoạ hồ nam bắc,
Cố quốc quy dư nhất phiến phàm.
Dịch nghĩa:
Tấm lòng nơi xa vạn dặm nay trở về, không cần mở thư xem nữa,
Ngồi trong thuyền sứ mà ngỡ như đang vượt khỏi cõi trần.
Quan ải trên núi xa xa chia hai miền Di, Hạ, Lòng sông sáng như gương dường phân biệt được ai thánh, ai phàm.
Hàng trúc xanh giữa cơn gió lạnh, gió lùa đầy cả tay áo,
Cội thông xanh đằm sương ướt lạnh, sương móc ướt cả manh áo đơn.
Mặc ai vẽ được cảnh sắc hồ này,
Có một cánh buồm đang trở về quê hương.
Dịch thơ:
Người vạn dặm về, biếng mở thư, Trần gian thuyền lướt, nhẹ như tờ.
Thánh, phàm hiện rõ, gương sông sáng, Di, Hạ phân chia, ải núi mờ.
Áo chiếc sương đằm, thông biếc lạnh, Tay thùng gió lộng, trúc xanh lơ.
Cảnh hồ nam bắc tuỳ ai vẽ, Quê cũ ta về như ước mơ.
Người vạn dặm về, thư biếng xem, Thuyền tiên nhẹ lướt, vượt trần phàm. Mịt mờ cửa núi chia Di Hạ,
Vằng vặc gương sông rõ thánh, phàm. Trúc biếc gió thu lùa ngực áo,
Tùng xanh sương lạnh thấm vai chàm. Sông hồ nam bắc mặc ai vẽ,
Một cánh buồm về quê cũ thăm.
163.
咏黎長派侯髮 盛衰不改鉄心肝報國仍存一髮看短笑龍山驚落帽長嗟燕地怒冲冠幾莖未白黎圖暗兩鬢空畱滿塞寒三握知君何以沐忠臣自有淚波瀾
VỊNH LÊ TRƯỜNG PHÁI HẦU PHÁT
Thịnh suy bất cải thiết tâm can,
Báo quốc nhưng tồn nhất phát khan. Đoản tiếu Long sơn kinh lạc mão,1 Trường ta Yên địa nộ xung quan.2 Kỵ hành vị bạch Lê đồ ám,
Lưỡng mấn không lưu Mãn tái hàn. Tam ác tri quân hà dĩ mộc3,
Trung thần tự hữu lệ ba lan.
Dịch nghĩa:
VỊNH MÁI TÓC CỦA TRƯỜNG PHÁI HẦU HỌ LÊ
Dẫu cuộc thịnh suy mà tấm lòng sắt vẫn không đổi,
Lòng báo đền đất nước chỉ còn một mái tóc trắng.
1 Sách Tấn thư, Mạnh Gia truyện chép: “Ngày mồng chín tháng chín, vua Hoàn Ôn đãi tiệc ở núi Long Sơn, quan lại đều tụ họp, bấy giờ các quan tả lại đều mặc nhung phục, bỗng có trận gió thổi tới, thổi bay chiếc mũ của Gia xuống đất, nhưng Gia chẳng hay biết gì.” Về sau người ta dùng điển này để chỉ việc lên núi cao trong ngày trùng cửu.
2 Kinh Kha lúc vào Tần để hành thích vua Tần Thuỵ Hoàng,
ông cùng người đẹp Li Cơ đàn hát để tỏ quyết tâm, những người đưa tiễn nghe thấy cảnh tượng ấy đều rợn da, tóc dựng lên mũ. Thơ Lạc Tân Vương đời Đường: Thử địa biệt Yên Đan/ Tráng sĩ phát xung quan/ Tích thời nhân dĩ một/ Kim nhật thuỵ do hàn.
3 Tam ác: ba lần vắt tóc.
Cười cho việc nơi núi Long hoảng sợ rơi cả mũ,
Lại than thở việc Kinh Kha tóc giận dựng ngược lên mũ nơi đất Yên.
Mấy hàng tóc chưa bạc, nghiệp nhà Lê đen tối,
Hai mái tóc còn đây như sương lạnh nơi đất bắc.
Làm sao tắm được khi mà ba lần vắt tóc? Nước mắt bậc trung thần luôn có sóng ngàn. Dịch thơ:
Thịnh suy chẳng đổi thiết tâm can, Báo quốc còn đây mái tóc khan.
Những cợt Long sơn kinh rớt mũ, Luống than Yên địa giận xung quan. Mấy hàng chưa bạc, cơ Lê tắt,
Hai mái còn trơ, ải Bắc hàn. Tóc vắt ba lần khi tắm gội, Trung thần sóng lệ tự man man.
164.
咏武後軍火
休將成敗論危安一點精誠用火難八角亭紅忠骨焰四方煙白賊心寒冷灰猶熱英雄血死炭能生戰士肝不獨棉山三月節御鑪日日爲勻看
VỊNH VŨ HẬU QUÂN HOẢ
Hưu tương thành bại luận nguy an, Nhất điểm tinh thành dụng hoả nan. Bát giác đình hồng trung cốt diệm, Tứ phương yên bạch tặc tâm hàn.
Lãnh khôi do nhiệt anh hùng huyết, Tử thán năng sinh chiến sĩ can.
Bất độc Miên sơn tam nguyệt tiết, Ngự lư nhật nhật vị quân khan.
Dịch nghĩa:
VỊNH V HẬU QUÂN TỰ THIÊU
Chớ nên đem việc thành và bại để luận anh hùng,
Một tấm lòng thành, khó mà dùng lửa để tỏ bày hết.
Nơi đình bát giác, ngọn lửa đỏ thiêu xương cốt người trung,
Khói trắng ngùn ngụt bốn phương, làm rợn lòng kẻ giặc.
Than lạnh vẫn còn nóng dòng máu anh hùng, Than đen vẫn có thể giục lòng người chiến sĩ. Chẳng riêng gì nơi núi Miên (núi Gòn) trong ngày lễ tháng ba,
Mà lò hương nơi ngự điện ngày ngày đều tỏa khói nhang.
Dịch thơ:
Đừng đem thành bại luận an nguy, Một tấc thành tâm, lửa khó bày.
Bát giác đình hồng, trung cốt rực, Bốn phương khói trắng, tặc tâm bay. Tro tàn vẫn rực lòng quân sĩ,
Than lạnh còn sôi máu tướng tài. Nào chỉ Miên Sơn ba tháng tết, Ngày ngày ngự điện khói hương xây.
165.
咏吳禮部酒
酒有如君古未觀千秋事業一杯乾醒囘寄托生前重酣得醇誠死後安直以香醪酬國易空畱新麴飲人難醉中恐失君臣禮將入黃泉尙整冠
VỊNH NGÔ LỄ BỘ TỬU
Tửu hữu như quân cổ vị quan, Thiên thu sự nghiệp nhất bôi can. Tỉnh hồi ký thác sinh tiền trọng, Hàm đắc thuần thành tử hậu an. Trực dĩ hương giao thù quốc dị, Không lưu tân khúc ẩm nhân nan. Tuý trung khủng thất quân thần lễ,
Tương nhập hoàng tuyền thượng chỉnh quan.
Dịch nghĩa:
VỊNH CHÉN RƯỢU CỦA LỄ BỘ HỌ NGÔ
Uống rượu như anh, xưa nay tôi chưa từng thấy,
Sự nghiệp ngàn thu dốc cạn trong một chén. Khi tỉnh, những lời gởi gắm của ông, lúc còn sống thật to lớn,
Lúc say tấm lòng ông vẫn thuần hậu, chết rồi vẫn an nhiên.
Đền ơn nước bằng chén rượu, ấy cũng dễ,
Còn để lại men nồng cho người ta uống, thật khó thay.
Trong cơn say anh vẫn sợ thất lễ vua tôi,
Lúc xuống suối vàng vẫn còn sửa áo mũ ngay ngắn.
Dịch thơ:
Uống rượu như anh hiếm ở đời, Ngàn thu sự nghiệp, một ly thôi! Tỉnh thời phó thác, lời còn nặng,
Say vẫn thuần thành, phách hãy ngơi. Báo nước, dễ bằng chung rượu đắng, Cho người, khó để chút men hơi.
E say thất lễ quân thần lắm,
Chín suối đường về mũ chẳng lơi.
184.
乙丑年春日偶成玉樹春風錦繡香朝囘微醉倚仙床日輪近午雲應淡斗柄迴寅物更光滿地奇花開富貴盈箱古史載文章太平笑我無多策壽比南山慶聖王
ẤT SỬU NIÊN XUÂN NHẬT NGẪU THÀNH
Ngọc thụ xuân phong cẩm tú hương, Triêu hồi vi tuý ỵ tiên sàng.
Nhật luân cận ngọ, vân ưng đạm, Đẩu bính hồi dần, vật cánh quang. Mãn địa kỳ hoa khai phú quý, Doanh tương cổ sử tải văn chương. Thái bình tiếu ngã vô đa sách,
Thọ tỵ Nam Sơn khánh thánh vương.
Dịch nghĩa:
NGÀY XUÂN NĂM ẤT SỬU, NGẪU NHIÊN THÀNH THƠ
Cây hoè đưa hương trong gió xuân,
Sáng tỉnh giấc trong cơn say, dựa giường tiên. Mặt trời gần trưa, mây dường tan mỏng đi, Sao bắc đẩu chuyển sang hướng dần, vạn vật tốt tươi.
Khắp chốn hoa thơm nở phú quý,
Đầy rương sách sử cổ chở văn chương.
Thời thái bình cười cho ta không có nhiều kế sách,
Chỉ chúc thánh vương thọ tựa núi Nam.
Dịch thơ:
Gió ấm cội hoè phô gấm hương, Cơn say chưa tỉnh, tựa bên giường. Trời xoay sắp ngọ, mây phơn phớt,
Sao chuyển qua dần, vật thịnh trương. Khắp chốn kỳ hoa khoe phú quý,
Đầy rương cổ sử chở văn chương.
迎風庭院花爭放帶雨江湖水急流癡傼食芹猶遠志故人莫問再來不
LƯU BIỆT
Dung sơ cố tật dược hà cầu? Mỗi sử nhân gian tác thoại đầu. Tôn tửu dị thù tri kỵ ẩm,
Phiến ngôn nan vấn vị thân mưu. Nghênh phong đình viện hoa tranh phóng, Đới vũ giang hồ thuỵ cấp lưu.
Si hán thực cần do viễn chí,1 Cố nhân mạc vấn tái lai phầu!?
Dịch nghĩa: LƯU BIỆT
Cái tật lười biếng của ta, biết tìm thuốc chữa nơi đâu?
Thường khiến người đời làm câu nói đầu môi. Li rượu dễ uống cùng người tri kỵ,
Còn lời nói khó hỏi: có vì thân mưu cầu hay không?
Hoa nơi sân đình đón gió xuân tranh nhau nở, Nước sông hồ theo mưa cuồn cuộn trôi.
Gã ngốc ăn rau cần, vẫn có chí hướng xa vời, Nên bạn đừng hỏi: ta có trở lại hay không!? Dịch thơ:
Biếng lười tật cũ, thuốc khôn màu, Thường để người đời kháo chuyện nhau. Chén rượu dễ mời tri kỷ uống,
Nửa lời e nói vị thân cầu.
Trước thềm gió lộng hoa đua nở, Hồ biển mưa rào nước cuốn mau. Kẻ dại ăn cần, nuôi chí lớn,
Cố nhân đừng hỏi lại về đâu?
186.
丁卯年季秋欽命鍚封高綿國王途經廣義茶曲江遇洪水駐節龍頭山
行旌遇雨駐龍頭茶曲滔滔晝夜流治水昔時猶有道濟川今日豈無舟
Thái bình tự cợt ta vô dụng,
Thọ tựa Nam Sơn, chúc thánh vương.
185.
畱別
慵疎痼疾藥何求每使人間作話頭樽酒易酬知己飲片言難問爲身謀
1 Si hán: gã ngốc. Trong sách Tấn thư có chép chuyện về Vương Thầm, người đời Tấn, cả dòng họ đều cho Thầm là kẻ ngốc. Người cháu con anh ông là Tế, nhân cùng nói chuyện với chú mình về kinh Dịch, mà mổ xẻ được nhiều vấn đề kỳ diệu, bèn lấy làm lạ. Khi Vũ Đế cho gặp Tế, hỏi rằng: “Ông chú ngốc của khanh khoẻ chứ?”. Tế đáp: “Chú của thần không ngốc”. Hỏi: “Ví như ai chăng?”. Đáp: “Từ Sơn Đào trở xuống, Nguỳ Thư trở lên, đều từ cái ngốc đó mà nổi danh”. Lại ở Bắc sử có chuyện Lý Tập người Bắc Tề, vì việc can gián vua mình chẳng kiêng dè, mà Văn Tuyên Đế cười nói: “Trong thiên hạ còn có kẻ nào ngốc như thế chăng?”. Rau cần là loại mọc ven bờ nước, ruột rỗng, lại có vị cay. Ở đây tác giả có lẽ mượn chuyện trên và với việc ăn rau cần để tỏ ý mình kiên trung, vô tâm.
靜觀雲色千山暮閒聽風聲萬木秋欲速從來多不達罪甘王命住淹畱
ĐINH MÙI NIÊN QUÝ THU, KHÂM MỆNH TỨ PHONG CAO MIÊN QUỐC VƯƠNG ĐỒ KINH QUẢNG NGHĨA TRÀ KHÚC GIANG NGỘ HỒNG THUỶ TRÚ TIẾT LONG ĐẦU SƠN.
Hành tinh ngộ vũ trú Long đầu, Trà Khúc thao thao trú dạ lưu. Trị thuỵ tích thời do hữu đạo, Tế xuyên kim nhật khởi vô chu. Tĩnh quan vân sắc thiên sơn mộ,
Nhàn thính phong thanh vạn mộc thu. Dục tốc tùng lai đa bất đạt,
Tội cam vương mệnh trú yêm lưu.
Dịch nghĩa:
CUỐI THU NĂM ĐINH MÙI, KHÂM MỆNH BAN PHONG CHO QUỐC VƯƠNG NƯỚC CAO MIÊN, TRÊN ĐƯỜNG QUA SÔNG TRÀ KHÚC TỈNH QUẢNG NGÃI, GẶP LŨ LỚN, TRÚ TẠM Ở NÚI LONG ĐẦU
Mang cờ sứ ra đi, lại gặp mưa, đành trú ở Long đầu,
Dòng sông Trà Khúc đêm ngày nước cuồn cuộn chảy.
Trị thuỵ ngày xưa có cách trị,
Ngày nay qua sông há đâu không có thuyền? Lặng nhìn sắc mây, ngàn núi tối mù,
Chỉ nghe tiếng gió rít, cây cối lồng tiếng thu. Muốn cho nhanh chóng, xưa nay phần nhiều là không được,
Đành cam tội với vua, mà dần dà nơi này.
Dịch thơ:
Mang cờ gặp lũ, trú Long đầu,
Trà Khúc đêm ngày nước cuốn mau. Trị thuỷ xưa kia còn có đạo,
Vượt sông chừ lại há không tàu? Màu mây lặng ngó, ngàn non tối, Tiếng gió im nghe, vạn gốc thu.
Muốn chóng, xưa nay thường chẳng đạt, Đành cam mang tội ở đây lâu.
187.
答諸友贈別原韻滿城春色送征鞍半句心頭欲話難未信臨民師子產敢將市義效馮驩江山有意雲相浄天地無心物自閒
此去已期梅月會休將杯酒唱陽關
ĐÁP CHƯ HỮU TẶNG BIỆT NGUYÊN VẬN
Mãn thành xuân sắc tống chinh an, Bán cú tâm đầu dục thoại nan.
Vị tín lâm dân sư Tử Sản,1
Cảm tương thị nghĩa hiệu Phùng Hoan.2 Giang sơn hữu ý vân tương tịnh,
Thiên địa vô tâm vật tự nhàn. Thử khứ dĩ kỳ mai nguyệt hội,
Hưu tương bôi tửu xướng Dương Quan.
Dịch nghĩa:
ĐÁP LẠI NGUYÊN VẬN BÀI TẶNG BIỆT CỦA CÁC BẠN
Khắp thành tràn ngập mùa xuân, bạn tiễn ta đi xa,
Nửa câu thật lòng, muốn nói nhưng khó thay. Chưa dám tin sẽ yêu dân như con giống Tử Sản,
Nhưng dám học theo Phùng Hoan mua tiếng nghĩa cho chủ mình.
Sông núi có ý, mây sạch làu, Trời đất vô tâm, vạn vật tự thành.
Từ đây ra đi, đã hẹn gặp nhau khi mùa mai nở, Đừng đem li rượu hát khúc Dương Quan để từ biệt nhau.
Dịch thơ:
Bạn tiễn ta đi, xuân ngập thành, Nửa lời tâm sự, ngập ngừng quanh.
Thương dân Tử Sản, theo chưa đặng, Mua nghĩa Phùng Hoan, học cũng đành. Hữu ý, non sông, mây lắng tạnh,
1 Tử Sản: tên tự của Công Tôn Kiều, quan đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu, vì ở làng Đông, nên gọi là Đông lý Tử Sản. Ông học rộng hiểu nhiều, giỏ về chính trị, làm quan từ thời Trịnh Giản Công trải qua thời Định Công, Hiến Công, Thanh Công, tất cả hơn bốn mươi năm. Bấy giờ nước Trịnh tranh bá với nước Tấn, Sở, ông thường dùng lễ nghĩa để làm việc, mà không hề ẩu tả theo sở thích của mình. Hai nước Tấn, Sở rất kiêng nể ông. Cách làm chính trị của ông là khoan hoà để làm cho mạnh mẽ, mạnh mẽ để giúp khoan hoà. Ông được Khổng Tử khen là Huệ nhân (người có nhân từ, ân huệ), và khen là được bốn đạo của người quân tử: “Hành kỵ dã cung, sự thượng dã kính, dưỡng dân dã huệ, sử dân dã nghĩa” (khiêm cung trong việc làm của mình, thờ vua bằng sự tôn kính, nuôi dân bằng ơn huệ, sai khiến dân bằng nghĩa).
2 Phùng Hoan: khách của Mạnh Thường Quân công tử Điền
Văn nước Tề. Ông là người gõ kiếm ca đòi sự đãi ngộ như những gia khách khác, đến khi Mạnh Thường Quân muốn đòi nợ ở đất Tiết, ông là người xin đi. Trước khi đi, hỏi Mạnh Thường Quân muốn mua gì? Mạnh Thường Quân bảo cái gì thiếu thì mua. Phùng Hoan liền đến đất Tiết, xoá hết sổ nợ của dân. Khi về, Mạnh Thường Quân hỏi đã thu nợ được không? Mua gì về không? Phùng Hoan kể rõ sự tình và nói làm vậy là mua tiếng nghĩa cho Mạnh Thường Quân. Thường Quân có ý không vui. Nhưng về sau, bị vua Tề nghi kỳ, không còn chỗ nào về, khi đến đất Tiết, đã thấy dân chúng đón ở ven đường. Bấy giờ Mạnh Thường Quân mới thấy việc mua nghĩa của Phùng Hoan là quan trọng.
Vô tâm, trời đất, vật tự sinh. Ngày đi hẹn gặp mùa mai nở,
Chén rượu Dương Quan hãy để dành.
華原詩草
欽命正使兵部尚書黎知止晉齋甫輯
HOA NGUYÊN THI THẢO
KHÂM MỆNH CHÍNH SỨ BINH BỘ THƯỢNG THƯ LÊ TRI CHỈ TẤN TRAI PHỦ TẬP
1.畱別北城阮總鎮顏範三年始一親驚催冠劍作陪臣敬天殿1繞皇華燦昭德臺2迎帝寵新創國正關公鎖鑰泛槎莫說我風塵驛梅指日旋香信南北擕看宇宙春
LƯU BIỆT BẮC THÀNH NGUYỄN TỔNG TRẤN
Nhan phạm tam niên thuỵ nhất thân, Kinh thôi quan kiếm tác bồi thần.
Kính Thiên điện nhiễu hoàng hoa xán, Chiêu Đức đài nghênh đế sủng tân.
Sáng quốc chính quan công toả dược, Phiếm tra mạc thuyết ngã phong trần. Dịch mai chỉ nhật tuyền hương tín, Nam bắc huề khan vũ trụ xuân.
Dịch nghĩa:
THƠ GIÃ BIỆT TỔNG TRẤN BẮC THÀNH HỌ NGUYỄN
Ba năm mới được gặp mặt một lần,
Mão kiếm mang vội vàng làm người bầy tôi bồi tiếp.
Điện Kính Thiên, vẫn hằng mơ suốt chặng đường đi sứ,
Đài Chiêu Đức, nghênh đón ơn vua mới.
Việc dựng nước, chính nhờ một phần ông mở mang,
Chuyện đi sứ, đừng kể rằng tôi xông pha nơi gió bụi.
Cành mai ở dịch trạm một ngày không xa lại toả hương thơm ngát,
Nam bắc cùng dắt tay xem mùa xuân đầy vũ trụ.
Dịch thơ:
Ba năm mới được gặp dung nhan,
1 Nguyên chú: 殿在昇龍城臨朝命之所 điện ở thành Thăng Long, nơi nhận lệnh vào triều.
2 Nguyên chú: 臺在南關上是交接之所 đài trên ải Nam Quan, là nơi
giao tiếp (với các sứ thần Trung Quốc).
Mão kiếm bầy tôi cũng vội vàng. Điện Kính Thiên mơ đường sứ ruổi,
Đài Chiêu Đức đón nghĩa vua thương. Dựng nước, phần nhờ anh giúp rập, Sứ xa, đâu quản tớ phong sương.
Tin thơm mai trạm ngày kia ngát, Nam bắc cùng xem xuân ngập tràn.
吳澧溪曰三年一親別亦久矣冠劍驚催行亦驟矣久別行驟不能無言至其辭殿而賦皇華望臺而邀帝寵則別也爲王事而行也爲壯遊南關北上時不比陽關西出况民心初附安危係於將鄰好初締榮辱係於使藥石龍蛇之用衣冠玉帛之周旋居者行者總之爲國分猷故以鎖鑰勉將轅而風塵安使職真正事君以身贈知己以言宇宙囘春將公調爕手亦使公經濟手
Ngô Lễ Khê bình: Ba năm mới gặp, cách biệt cũng lâu. Mũ kiếm mang vội chứng tỏ lên đường bất ngờ. Cách biệt đã lâu mà lên đường cũng vội nên không thể không nói một lời. Như ông từ biệt cung điện mà lên đường đi sứ, trông ngóng lâu đài mong được ân sủng của vua; cách biệt là bởi việc nước, lên đường làm một chuyến đi xa. Chuyến đi từ ải Nam Quan sang đất Bắc bấy giờ, không thể sánh với chuyến ra khỏi Dương Quan về tây; huống lòng dân mới theo, an nguy ở tướng, mà giao hảo với láng giềng vinh hay nhục lại nằm ở người đi sứ. Cái dụng của dược thạch long xà3, sự chu toàn của y quan ngọc bạch4, kẻ ở lại hay người ra đi cũng đều là vì đất nước, vậy nên mấu chốt ở chỗ khuyên gắng tướng nơi viên môn, mà gió bụi nơi xa cũng phải an lòng sứ giả. Thật là, đem thân thờ vua, lấy lời tặng người tri kỵ, vũ trụ xuân về, tướng công là tay điều hoà, mà sứ công là tay kinh luân.
33 Long xà: rồng và rắn, cụm từ này có các nghĩa sau: 1, chỉ việc ở ẩn; 2, chỉ những người có tài dị thường; 3, chỉ vũ khí như mâu và kích; 4, chỉ năm thìn và năm tỳ; 5, chỉ cây cối um tùm. Ở đây có lẽ muốn chỉ đến vũ khí, ngụ ý tướng võ. Dược thạch: chỉ trị bệnh bằng thuốc thang và kim châm, còn để chỉ những lời khuyên can. Dược thạch long xà dùng trong câu này chỉ võ tướng Nguyễn Văn Thành.
4 Y quan ngọc bạch: áo mão lụa ngọc, ở đây có ý chỉ quan văn như Lê Quang Định.
2.畱別北城諸僚友 步葵江侯元韻言語羞將品使才
直敎寸念得叨陪龍城雲樹描離思燕地梯航逐遠來征眼翠連關上椏皇華香送隴頭梅今朝非以尋常醉擕手相將莫厭杯
LƯU BIỆT BẮC THÀNH CHƯ LIÊU HỮU BỘ QUỲ GIANG HẦU NGUYÊN VẬN
Ngôn ngữ tu tương phẩm sứ tài, Trực giao thốn niệm đắc đao bồi. Long thành vân thụ miêu li tứ, Yên địa thê hàng trục viễn lai.
Chinh nhãn thuý liên quan thượng liễu, Hoàng hoa hương tống lũng đầu mai. Kim triêu phi dĩ tầm thường tuý,
Huề thủ tương tương mạc yếm bôi.
Dịch nghĩa:
THƠ GIÃ BIỆT CÁC BẠN ĐỒNG LIÊU Ở BẮC THÀNH, LÀM THEO NGUYÊN VẬN THƠ QUỲ GIANG HẦU
Thẹn đem lời lẽ để bình phẩm tài năng của sứ giả, Tấc lòng luôn nghĩ rằng mình may mắn được chọn đi sứ.
Mây và cây ở thành Thăng Long như tô vẽ nỗi sầu xa cách,
Thuyền sứ lên đất Bắc (Trung Quốc) như đẩy người xa thêm.
Trông xa liễu trên quan ải một màu xanh biếc, nối tiếp nhau,
Trên đường đi sứ, hoa mai đầu truông núi toả hương tiễn ta.
Sáng nay chẳng phải say vì những việc tầm thường,
Cùng nhau nắm tay, chúng ta kẻ tướng văn người tướng võ, chớ buông li.
Dịch thơ:
Lời lẽ thẹn bàn tài sứ a,
Tấc lòng được nhận hội văn gia. Thành Long cây khói tô niềm biệt, Cõi Bắc thuyền bè ruổi nỗi xa.
Quan ải liễu xanh đôi mắt biếc,
Đầu truông mai ngát dặm hoàng hoa. Sáng nay say khước cơn say lạ,
Tay nắm cùng nhau dốc chén khà.
3.寄懷北城阮總鎮1
渡頭鄭重別時難折柳停鞭半日間佳句長吟凝白雪台光回望阻青山霜濡華駱心如轉夢入芝眉步欲寬天定寺前三把飲於今春色尚酡顏
KÝ HOÀI BẮC THÀNH NGUYỄN TỔNG TRẤN
Độ đầu trịnh trọng biệt thời nan, Chiết liễu đình tiên bán nhật gian.
Giai cú trường ngâm ngưng bạch tuyết, Đài quang hồi vọng trở thanh san.
Sương nhu hoa lạc tâm như chuyển, Mộng nhập chi my bộ dục khoan.
Thiên Định tự tiền tam bả ẩm, Ư kim xuân sắc thượng đà nhan. Dịch nghĩa:
GỞI NỖI LÕNG ĐẾN TỔNG TRẤN BẮC THÀNH HỌ NGUYỄN
Đầu bến sông dùng dằng mãi, khó chia xa, Dừng ngựa, bẻ cành liễu trong ánh nắng chiều.
Câu thơ hay ngâm nga mãi, làm tuyết ngưng đọng, Ngoái nhìn đền đài quang tạnh bị ngăn cách bởi núi xanh.
Sương thấm ngựa hoa, lòng quặn chuyển, Giấc mộng vào mắt, bước đi khoan thai. Trước chùa Thiên Định, ba lần nâng chén, Sắc xuân đến nay vẫn còn trên vẻ mặt hồng. Dịch thơ:
Đầu bến dùng dằng khó cách xa, Dừng roi ngắt liễu bóng chiều tà.
Câu hay ngâm ngợi, đông sương tuyết, Lầu gác trông vời, cách núi hoa.
Móc thấm ngựa hoa, lòng quặn thắt, Mộng lên mày cỏ, bước bao la.
Trước chùa Thiên Định nâng ba chén, Xuân sắc vẫn còn thắm mặt ta.
阮素如曰不借雕刻自有餘味
Nguyễn Tố Như bình: Không cần chạm trổ câu chữ mà thơ tự có dư vị.
4.寧明江解纜 寧明百里別南天使節悠揚插畫船汀鶴沙鷗供我覽江梅堤柳爲誰牽
1Nguyên chú: 壬戌冬十一月望厚後在昇龍城發行公餞詩一章又擕過珥河到天定寺停鞭把杯爲別五天後至諒山城乃次公元韻寄懷
Tháng 11 mùa đông năm Nhâm Tuất, sau khi vọng hậu ở thành
Thăng Long, lúc lên đường ông tiễn bằng một bài thơ, lại đưa qua sông Nhĩ Hà đến chùa Thiên Định mới dừng ngựa, mang chén rượu để tiễn biệt, năm ngày sau, tôi đến thành Lạng Sơn bèn theo vần thơ ông mà làm thơ gởi nỗi lòng.
雲間城郭斜陽樹岸次篷篙夕嶂煙一望坦然寬眼界崎嶇何似十年前
NINH MINH GIANG GIẢI LÃM
Ninh Minh bách lý biệt nam thiên, Sứ tiết du dương sáp hoạ thuyền. Đinh hạc sa âu cung ngã lãm, Giang mai đê liễu vị thuỳ khiên. Vân gian thành quách tà dương thụ,
Ngạn thứ bồng cao tịch chướng yên. Nhất vọng thản nhiên khoan nhãn giới, Kỳ khu hà tự thập niên tiền!
Dịch nghĩa:
RỜI THUYỀN Ở SÔNG NINH MINH
Ninh Minh trăm dặm nữa cách biệt trời Nam, Cờ sứ cắm trên thuyền hoa bay phần phật.
Vạc cò nơi bãi nước cho ta ngắm thoả thích,
Liễu trên bờ đê, mai nơi bờ sông như níu kéo tình ai.
Thành quách cao cao giữa mây trời, bóng tà dương lồng trong cây cối,
Thuyền ghé mái chèo vào bờ đỗ trong sương khói chiều đêm.
Nhìn ngắm mênh mông ánh mắt bao la,
Gập ghềnh hiểm trở sao như trước đây mười năm.
Dịch thơ:
Ninh Minh trăm dặm giã trời Nam, Cờ sứ thuyền hoa lộng gió tràm.
Bờ bãi vạc cò, tuỳ thích ngắm, Đê sông mai liễu, níu lòng đam.
Mây lồng thành quách cây nghiêng bóng, Bờ ghé thuyền tranh khói xế lam.
Mắt ngắm bao la cùng khắp cõi,
Gập ghềnh sao giống cách mươi năm.
吳澧溪曰扁舟浮海而後知達岸之安千里徒行而後知登車之適回思十數年前從事兵場腳踏處虎穴蛇區骸山血水眼開處刀鋒劍樹石雨箭蝗崎嶇險巇儘是可驚可愕一旦使節馳星畫船泛月噉虓嘶馬轉爲汀鶴沙鷗白刃青旌化作江梅堤柳雲間城郭非復兵爭岸次篷篙更無戌仗豁然一望不覺心曠神怡所以纔別南天便自得興連下記見一章極筆補漏不然前程尚遠名勝甚多未當於抵寧時先已費心點綴
Ngô Lễ Khê bình: Một chiếc thuyền nhỏ bồng bềnh trên biển rồi sau đó mới biết sự bình an của việc đến bờ, bước ngàn dặm trên đá ghềnh rồi mới biết cái nhàn nhã của việc ngồi xe. Nhớ lại mười mấy năm trước theo việc quân, bước chân dẫm khắp hang hùm ổ rắn, núi xương biển máu, mắt nhìn nơi ngọn đao mũi kiếm hòn tên, gian khổ gập ghềnh hiểm hóc thật là đáng kinh ngạc thay. Đến
khi cầm cờ đi sứ rong ruổi trên thuyền hoa, bập bềnh cùng trăng, hùm kêu ngựa hí, chuyển thành cò vạc nơi bãi bờ; kiếm trắng cờ xanh hoá thành mai sông liễu bãi, thành quách trong mây chẳng phải binh tranh trở lại, chèo mái thuyền tranh vào bờ đỗ, lại càng không cần binh tốt đánh nhau, trông khắp bao la, bất giác trong lòng rộng rãi, thần tình vui vẻ, thế nên vừa từ biệt trời Nam thì đã hứng khởi trong lòng, liên tiếp ghi lại những điều trông thấy, một bài tuyệt bút, chẳng cần vá víu, tiền trình còn xa, cảnh đẹp còn nhiều, hẳn chưa hết nên thà dừng trước, khỏi phí lòng điểm xuyết.
5.明江記見
繞城一帶水流通岸聳層巒霽碧空山市閒雲歸鳥道江村微雨浴漁翁女粧荊布搖長櫓兒繫瓢瓜戲短篷伴送州官無箇事請安惟有札書翃
MINH GIANG KÝ KIẾN
Nhiễu thành nhất đái thuỵ lưu thông, Ngạn tủng tằng loan tễ bích không. Sơn thị nhàn vân quy điểu đạo, Giang thôn vi vũ dục ngư ông.
Nữ trang kinh bố dao trường lỗ, Nhi hệ biều qua hí đoản bồng. Bạn tống châu quan vô cá sự, Thỉnh an duy hữu trát thư hồng. Dịch nghĩa:
GHI LẠI NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY Ở MINH GIANG
Một dòng sông chảy bao quanh thành,
Non núi điệp trùng giữa bầu trời xanh quang tạnh. Mây bay nhàn nhã giữa phố núi, trên đường một cánh chim bay trở về,
Mưa lâm thâm ở ngôi làng bên sông gội ướt ông lão chài cá.
Cô gái mặc áo vải gai khua mái chèo,
Đứa bé buộc tã đang đùa giỡn nơi mui thuyền. Quan quân đón tiễn ta chẳng có gì,
Chỉ có một trát thư đỏ để thỉnh an mà thôi.
Dịch thơ:
Quanh thành lờ lững một dòng sông, Núi vút trời cao sạch bụi hồng.
Phố núi mây xanh chim mỏi cánh, Làng sông mưa nhỏ gội ngư ông. Cô nàng áo vải khua chèo quế, Con bé buộc khăn giỡn mái bồng. Đón tiễn nhà quan đơn giản lạ,