Tiểu kết chương 1
Mô hình KTTT là mô hình quản lý kinh tế phổ biến trên thế giới, được hầu hết các nước sử dụng ở các mức độ khác nhau nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mình. Không nằm ngoài nguyên lý chung đó, Việt Nam đã chính thức coi KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH (4- 2001). Từ đó đến nay, các công trình nghiên cứu về KTTT nói chung và nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam ngày càng mở rộng về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, số lượng các công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về đường lối phát triển nền KTTT định hướng XHCN vẫn còn ít. Do vậy, nghiên cứu về vấn đề này sẽ cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết thực tiễn - lý luận nhằm phục vụ cho hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN trong thời gian tới.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến nền KTTT định hướng XHCN chủ yếu đề cập đến các mô hình KTTT trên thế giới, thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và đặt ra yêu cầu hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN để nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển, đạt được nhiều thành tựu hơn nữa. Việc nghiên cứu quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam chưa có nhiều, chiếm số lượng khiêm tốn trong những công trình nghiên cứu về nền KTTT định hướng XHCN
Mặc dù nghiên cứu về đường lối phát triển nền KTTT định hướng XHCN của Đảng từ năm 2001 đến năm 2016 chưa phải là ưu tiên của nhiều nhà khoa học. Nhưng các công trình nghiên cứu trong phần tổng quan, liên quan đến Luận án sẽ cung cấp nhiều tư liệu, phương pháp nghiên cứu hữu ích cho quá trình hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của tác giả.
Chương 2
BƯỚC ĐẦU ĐỊNH HÌNH ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM (2001 - 2010)
Có thể bạn quan tâm!
- Đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2016 - 2
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Việt Nam
- Kết Quả Của Các Công Trình Đã Được Công Bố Và Những Vấn Đề Luận Án Tập Trung Nghiên Cứu
- Toàn Cầu Hóa Tạo Cơ Hội Và Thách Thức Cho Phát Triển Đất Nước
- Phân Bổ Nguồn Lực Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa
- Chủ Động Và Tích Cực Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.
2.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM (2001 – 2010)
2.1.1. Tiền đề thực tiễn - lý luận ở trong nước
2.1.1.1. Tiền đề về mặt thực tiễn
Sau 15 năm tiến hành Đổi mới toàn diện đất nước, tính đến khi kết thúc thế kỷ XX, Việt Nam đã đi được môt chặng đường khá dài chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế chế thị trường. Mặc dù đó chưa phải là mô hình KTTT đầy đủ, thường được khái quát là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN, nhưng đã xác lập những tiền đề cơ bản cho định hình một mô hình kinh tế tổng quát mới ở Việt Nam khi bước sang thế kỷ XXI.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong 15 năm đầu thời kỳ đổi mới đã giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực, nguồn lực bước đầu được phân bổ theo tín hiệu thị trường, đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục từ năm 1986 đến năm 2000. Cụ thể, “tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1986-1990, giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới là 3,9%; giai đoạn 1991 – 1995 bình quân là 7%; giai đoạn 1996-2000 bình quân 6,96%” [91, tr.166]. Trong vòng 10 năm (1991-2000), “Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam tăng khoảng 2,07 lần. Tích tũy nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể, đến năm 2000 đạt 27% GDP” [31, tr.688]
Từ một nền kinh tế chỉ bao gồm hai thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, đã hình thành ngày càng rõ nét cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển, các phân biệt đối xử, định kiến tâm lý với khu vực kinh tế ngoài nhà nước dần được giải tỏa, từng bước thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài. Thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, DNNN được sắp xếp lại, từng bước thích nghi với cơ chế mới. Do được sắp
xếp lại tổ chức, quy mô theo hướng cổ phần hóa, khoán, cho thuê,…khiến số lượng DNNN giảm rõ rệt. Trước khi tiến hành đổi mới, Việt Nam có khoảng 12.000 DNNN, sau đó được sắp xếp lại còn khoảng 3.364 doanh nghiệp (năm 2000), “Tỷ trọng khu vực KTNN trong GDP đạt khoảng 39% (năm 2000)” [31, tr.756]
Thành phần KTTN được quan tâm, tạo điều kiện phát triển, đến năm 2000, Việt Nam đã có tới 35.004 DN tư nhân. Thành phần kinh tế tập thể, với nòng cốt là các hợp tác xã dần thay đổi cách thức làm ăn, trở thành những hợp tác xã kiểu mới, hoạt động trên cơ sở tự nguyện và liên kết chặt chẽ với thị trường, đảm bảo đầy đủ các quyền lợi của xã viên. Với một thị trường rộng lớn, hấp dẫn, nền kinh tế Việt Nam thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Vào những năm đầu thời kỳ đổi mới, chỉ có một số ít DN nước ngoài dè dặt đầu tư vào Việt Nam, đến năm 1995, khi Mỹ bình thường quan hệ ngoại giao với Việt Nam và Việt Nam gia nhập ASEAN, một làn sóng đầu tư nước ngoài dồn dập đổ vào Việt Nam và “trong 5 năm 1996-2000, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào thực hiện (không kể phần góp vốn trong nước) đạt khoảng 10 tỷ USD (theo giá năm 1995), gấp 1,5 lần so với 5 năm trước. Tổng số vốn cấp mới và bổ sung đạt 24,6 tỷ USD, tăng so với thời kỳ trước 34%” [31, tr.764]. Trên thực tế khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận có tính kết cấu của nền kinh tế Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của thành phần KTTN, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã làm thay đổi cơ cấu các thành phần kinh tế ở Việt Nam theo hướng giảm dần tỷ trọng KTNN và tập thể, tăng dần tỷ trọng KTTN và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Giá cả hàng hóa bắt đầu theo cơ chế thị trường, điển hình là việc điều hành chính sách tiền tệ của Nhà nước đã tuân theo tín hiệu của thị trường. Cơ chế quản lý và điều hành lãi suất ngoại hối, tỷ giá đã từng bước theo cơ chế thị trường, giảm bớt can thiệp hành chính của Nhà nước. Việt Nam đã hình thành thị trường tiền tệ liên ngân hàng, bắt đầu áp dụng công cụ thị trường mở và thành lập trung tâm chứng khoán. Việt Nam đã hình thành được thị trường sức lao động, chấp nhận trong thời kỳ quá độ lên CNXH có xung đột quan hệ lợi ích chủ - thợ và phân hóa giàu nghèo như một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn kiểm soát một số mặt hàng liên quan đến nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân .
Cơ chế phân bổ một số nguồn lực (đất đai, lao động, vốn đầu tư) đã bước đầu vận dụng cơ chế thị trường. Việt Nam đã hình thành thị trường bất động sản gắn với quyền sử dụng đất, để khai thông một nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế. Quan hệ lao động theo tín hiệu thị trường, nhà nước chỉ đặt ra khung mức lương tối thiểu và chế độ lao động buộc chủ sử dụng lao động phải tuân theo. Vốn đầu tư được đưa vào sản xuất kinh doanh chủ yếu được huy động nguồn ngân hàng và các tổ chức tín dụng theo quan hệ kinh doanh tiền tệ, thúc đẩy thị trường tài chính – tiền tệ hình thành.
Sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao (7-1995), hai nước đã ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (7-2000). Bên cạnh đó, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các đối tác khác cũng được thiết lập (Liên minh Châu Âu, các nước ASEAN, Diễn đàn APEC…). Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với 170 nước và vùng lãnh thổ. Các hoạt động tài trợ ODA cho Việt Nam được nối lại, “số vốn cam kết của Cộng đồng quốc tế đã lên tới 17,5 tỷ USD và 1,2 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế”. [12, tr.72]. Điều này đã thúc đẩy quan hệ thị trường nội địa gắn kết hữu cơ với thị trường thế giới, khiến cho luật pháp trong nước phải cải cách thích ứng với các luật lệ chung, nhất là liên quan đến xuất
– nhập, bảo hộ mậu dịch, chính sách tỷ giá...
Nhà nước tạo nhiều cơ chế chính sách thuận lợi để huy động nguồn vốn đầu tư từ khu vực KTTN: chỉ tính trong 5 năm (1996-2000), vốn đầu tư toàn xã hội đạt 440 nghìn tỷ đồng, trong đó: “vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 22,7%, vốn tín dụng đầu tư chiếm 14,2%, vốn đầu tư của DNNN chiếm 17,8%, vốn đầu tư của tư nhân và dân cư chiếm 21,3%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 24%” [31; tr.759]
Với sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, công tác xóa đói giảm nghèo được coi là điểm sáng trong các số các nước đang phát triển, có hoàn cảnh giống Việt Nam, tình trạng nghèo đói đã được giải quyết một cách cơ bản. Sau 15 đổi mới, Việt Nam đã giảm được 43,6% số hộ nghèo, bình quân mỗi năm giảm được 2,9%. An ninh lương thực đã được giải quyết. Cuộc sống người dân đã tốt hơn nhiều so với trước đổi mới, cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống nhân dân được xây dựng ngày một khang trang.
Nhà nước thực hiện tốt hơn vai trò đầu tư khi chi tiêu ngân sách nhà nước được cơ cấu lại theo hướng xóa bỏ bao cấp, tăng chi cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo, giáo dục đào tạo,…
Tuy nhiên, tình trạng phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư gia tăng nhanh chóng, tạo nên hai thái cực đối lập của sự phát triển, đe dọa sự ổn định xã hội. Bên cạnh đó, môi trường đô thị, nơi công nghiệp tập trung và một số vùng nông thôn bị ô nhiễm ngày càng nặng. Sự ô nhiễm này do chỉ tập trung vào kêu gọi đầu tư, phát triển kinh tế mà bỏ qua các yếu tố về môi trường trong sản xuất, kinh doanh.
Khu vực KTTN còn yếu, chủ yếu là quy mô nhỏ và siêu nhỏ, chưa có quyền bình đẳng, DNNN vẫn được cấp vốn, đất đai, đầu tư công của Nhà nước còn tư nhân không được tham gia, chưa được tiếp cận. Các chủ thể của kinh tế thị trường vì thế chưa đồng bộ và thiếu thực lực cần thiết cho phát triển.
Nhà nước đã ban hành một số cơ chế, chính sách có xu hướng trở lại bao cấp trở lại như khoanh nợ, xoá nợ, giảm thuế, miễn thuế, bù lãi suất, bao cấp qua giá và các hình thức bảo hộ quá mức của Nhà nước đối với DNNN. Chính điều này làm méo mó các quy luật của KTTT, khiến chúng không được thực hiện một cách đầy đủ nhất, làm chậm chuyển đổi sang nền KTTT đầy đủ. Thị trường trong nước với quốc tế chưa có sự liên thông, vẫn có độ vênh nhất định về mặt luật pháp.
Các loại thị trường mới được phát triển ở mức độ sơ khai, như thị trường vốn, DN chủ yếu vay vốn qua ngân hàng, mà chưa phát hành trái phiếu công ty, trái phiếu công trình để huy động vốn trên thị trường. Cơ chế đảm bảo các quyền người lao động chưa đầy đủ, nên lao động hầu hết vận hành theo quan hệ phi chính thức, không có bảo hiểm và thiếu tổ chức công đoàn bảo vệ.
Bên cạnh đó, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao, trở thành một trong những vấn đề nổi cộm nhất của xã hội khi kết thúc thế kỷ XX. Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu. Mức sống nhân dân, nhất là nông dân ở một số vùng quá thấp. Chính sách tiền lương và phân phối trong xã hội còn nhiều bất hợp lý. Sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh chóng.
Thị trường trong nước dễ bị tổn thương trước những tác động bất lợi khi thị trường thế giới khủng hoảng, điều này ảnh hưởng lớn đến quản lý kinh tế của Nhà nước, mà khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 – 1998 là một ví dụ
Một số khó khăn của nền kinh tế khiến cho Nhà nước gia tăng vai trò của mình, bao cấp trở lại, xã hội hóa bị cản trở. Tâm lý chưa tin tưởng vào khu vực
KTTN, chưa tin vào thị trường, xem thị trường như một nguy cơ làm chệch hướng XHCN vẫn ngự trị trong thể chế và xã hội
Thực tiễn chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam qua 15 năm đầu đổi mới, đã tạo lập các tiền đề về mặt thực tiễn cho hoàn thiện mô hình kinh tế mới ở Việt Nam khi chuyển sang thế kỷ XXI. Các chủ thế KTTT đã được trao quyền có giới hạn, các yếu tố thị trường và các loại thị trường đã hình thành, các quy luật của KTTT như giá trị, cung cầu, cạnh tranh bắt đầu phát huy trên thực tế. Tất nhiên, đó chỉ là những chủ thể KTTT chưa có quyền đầy đủ, các yếu tố thị trường và các loại thị trường còn chưa đồng bộ, phát triển khá yếu, tính tự phát của các quy luật của KTTT còn rất lớn. Điều đó khiến cho Đảng Cộng sản Việt Nam – lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội – phải tư duy về một mô hình KTTT hoàn bị hơn, vừa giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa giảm thiểu tính tiêu cực, tự phát để đem lại cuộc sống ấm no, tự do nhân dân, xây dựng đất nước cường thịnh. Đó chính là vấn đề xác lập nền KTTT định hướng XHCN khi bước sang thế kỷ XXI.
2.1.1.2. Tiền đề về nhận thức lý luận của Đảng
Trong 15 năm đầu Đổi mới (1986-2000), Đảng đã từng bước hình thành tư duy lý luận về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng XHCN.
Về cấu trúc mô hình kinh tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã phê phán cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp để chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh XHCN. Nền kinh tế Việt Nam sẽ có nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; cần phải kết hợp lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) và lần thứ VIII (6-1996) đã thể hiện bước phát triển nhận thức khi đề ra yêu cầu xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mô hình kinh tế này đã thể hiện được bản chất của kinh tế Việt Nam là kinh tế hàng hóa, đối lập với kinh tế tự cung tự cấp, và không phải là nền kinh tế chỉ huy. Nền kinh tế sẽ vận hành, phát triển theo định hướng tiến lên CNXH, chứ không phải con đường CNTB. Đồng thời, Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố lãnh đạo xây dựng, phát triển nền kinh tế đó. Có thể nói, đây là bước tiến quan trọng để Đảng dứt khoát đoạn tuyệt với mô hình kinh tế cũ.
Về cơ cấu thành phần kinh tế, tại Đại hội VI của Đảng (12-1986), lần đầu tiên Đảng yêu cầu phải đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cho phép và khuyến khích KTTN, cá thể phát triển trong những ngành nghề, lĩnh vực nhất định, coi đây là một đặc trưng của thời kỳ quá độ, nhằm “góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất” [31, tr.57]. Các thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế XHCN (khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể), các thành phần kinh tế khác (kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp). Nhà nước có chính sách ưu đãi về kinh tế (như chính sách đầu tư, thuế, tín dụng,…) đối với thành phần kinh tế XHCN; song về pháp luật thực hiện bình đẳng. Thành phần kinh tế quốc doanh “có quyền tự chủ, thật sự chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN” [31, tr.59], đồng thời “phải giành được vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân” [31, tr.61], thể hiện qua việc chiếm tỷ lệ lớn nhất trong sản xuất, lưu thông và chi phối được các thành phần kinh tế khác. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) của Đảng đã xóa bỏ phân biệt giữa thành phần kinh tế XHCN và phi XHCN, xác định rõ các thành phần kinh tế cùng tồn tại và tự do kinh doanh theo pháp luật. Trong đó, kinh tế quốc doanh tiếp tục nắm giữ những ngành kinh tế then chốt, đồng thời cần được sắp xếp lại để đảm bảo hiệu quả kinh doanh, KTTN được khuyến khích phát triển nhưng theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) tiến thêm một bước khi khẳng định sự cần thiết phải xây dựng nền kinh tế hàng hóa “Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển chung của văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng” [31; tr.481]. Như vậy, Đảng đã khẳng định nền kinh tế hàng hóa còn tồn tại lâu dài ở Việt Nam, mô hình phát triển kinh tế hàng hóa là quan điểm lâu dài và nhất quán của Đảng, nó không phải là quan điểm nhất thời, hay là chỉ tồn tại do ý muốn chủ quan.
Về cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng chỉ rõ, cần kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Xây dựng cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, lấy kế hoạch hóa làm trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ: “Sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so sánh
với chi phí hiệu quả, các tổ chức và đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng” [31; tr.65-66]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) nêu rõ hơn đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong đó, các đơn vị kinh tế hoàn toàn có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng với nhau, còn “thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức kinh doanh” [31, tr.274]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) tiếp tục cho rằng: “Thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô”[31, tr.481-482]
Về phẩn bổ các nguồn lực, các nguồn lực (đất đai, vốn đầu tư, lao động) cần được phân bổ dựa trên cơ chế thị trường, do vậy cần hình thành đồng bộ các loại thị trường. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) của Đảng nêu rõ: một mặt Đảng yêu cầu chính sách giá cả cần “vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó quy luật giá trị có tác động trực tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá trị, đồng thời phù hợp với sức mua của đồng tiền và tính đến quan hệ cung cầu” [31, tr.73]. Đồng thời vẫn phải kiểm soát chặt chẽ giá cả hàng hóa, không để giá cả thị trường tự do phát triển tự phát. Tiếp tục sự phát triển tư duy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) của Đảng yêu cầu cần “kiên trì vận dụng cơ chế giá thị trường đối với giá hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tỉ giá hối đoái, lãi suất tín dụng” [31, tr.277]
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) của Đảng cụ thể hóa trong việc xây dựng đồng bộ các loại thị trường: Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ. Tổ chức quản lý và hướng dẫn tốt việc thuê mướn và sử dụng lao động. Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản. Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành thị trường chứng khoán.
Về mối liên hệ giữa thị trường trong nước với thị trường thế giới, quan điểm của Đảng nhìn chung là xóa bỏ độc quyền của Nhà nước trong ngoại thương, mở rộng cho các thành phần kinh tế tự do kinh doanh xuất nhập khẩu, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, các thị trường của nước ta sẽ được từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới, giúp cho nền KTTT phát triển mạnh mẽ, phát huy được các mặc tích cực của nó.