mạnh đến mục tiêu nâng cao đời sống cho nhân dân, xóa đói giảm nghèo, bên cạnh các mục tiêu phát triển kinh tế. Sự phát triển của kinh tế cuối cùng phải phục vụ lợi ích của nhân dân, nhân dân được xác định ở vị trí trung tâm của sự phát triển
Có thể nói, mục tiêu phát triển nền KTTT định hướng XHCN của Đảng là giải phóng mọi nguồn lực trong xã hội, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, khác với nền KTTT trong “chủ nghĩa tự do”, thành quả phát triển kinh tế được phân phối theo hướng đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, không ai bị bỏ rơi trong quá trình phát triển. Điều đó khác hẳn với mục tiêu của “thị trường tự do” chỉ hướng tới tối đa hóa lợi nhuận phục vụ lợi ích các tập đoàn các nhà tư bản, lao động chỉ được xem là phương tiện của quá trình sản xuất.
2.2.2.2. Phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nhà nước và thị trường có vai trò quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực kinh tế: vốn đầu tư, lao động, tài nguyên thiên nhiên,…Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001) đề cập đến sử dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức sản xuất: “Sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường” [31, tr.636-637]. Cơ chế thị trường cũng đóng vai trò trong phân bổ nguồn vốn Nhà nước: “Chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, xoá bỏ bao cấp thông qua tín dụng đầu tư, đồng thời phát triển các quỹ hỗ trợ phát triển” [31, tr.649]
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006) tiếp tục khẳng định vai trò của Nhà nước trong phân bổ các nguồn lực, nhưng cần theo cơ chế thị trường: “Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển… Hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường” [36, tr.184]
Có thể nói rằng, cơ chế thị trường đã có vai trò quan trọng trong phân phối các nguồn lực phát triển, các chủ thể kinh tế sẽ cạnh tranh một cách công bằng để sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Nhà nước sử dụng các công cụ can thiệp hợp lý để khắc phục khuyết tật của thị trường, chủ yếu kiến tạo môi trường thuận lợi cho nguồn lực phân bổ hiệu quả theo cơ chế thị trường.
2.2.3. Tôn trọng, phát huy cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Phát triển nền KTTT định hướng XHCN đòi hỏi Đảng phải nhận thức và sử dụng đúng đắn các quy luật cơ bản như giá trị,cung cầu, cạnh tranh.
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Quả Của Các Công Trình Đã Được Công Bố Và Những Vấn Đề Luận Án Tập Trung Nghiên Cứu
- Cơ Sở Hình Thành Đường Lối Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Việt Nam (2001 – 2010)
- Toàn Cầu Hóa Tạo Cơ Hội Và Thách Thức Cho Phát Triển Đất Nước
- Chủ Động Và Tích Cực Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Thúc Đẩy Phát Triển Các Yếu Tố Thị Trường, Các Loại Thị Trường, Các Chủ Thể Của Kinh Tế Thị Trường
- Chủ Động, Tích Cực Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.
2.2.3.1. Tôn trọng cơ chế giá thị trường
Đây là vấn đề rất cơ bản của quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý trong suốt quá trình đổi mới, bảo đảm giá cả tuân theo giá trị, là trục xoay của thị trường. Qua 15 năm đổi mới, giá cả các hàng hóa cơ bản, thiết yếu đã tuân theo cơ chế thị trường, tạo tín hiệu cho đầu tư vào chỗ mang lại hiệu quả. Tuy vậy, giá một số mặt hàng như điện, nước, xăng dầu,... hoặc giá một số dịch vụ công dưới dạng phí, lệ phí (nước sạch, thủy lợi, vệ sinh môi trường, công viên, cây xạnh...) vẫn chưa tuân theo cơ chế thị trường, còn bao cấp của nhà nước. Nhiều DNNN vẫn nhận được cấp vốn của nhà nước, chưa thật sự vay tín dụng ngân hàng tuân theo cơ chế thị trường.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001) khẳng định cần tạo lập các yếu tố thị trường bằng cách hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Để có một thị trường minh bạch, mang tính cạnh tranh cao, cần “tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và cá nhân tiếp cận thị trường, ký kết hợp đồng, tự chủ và tự chịu trách nhiệm kinh doanh” [31, tr.834]. Các cơ quan hành chính Nhà nước sẽ giảm đến mức thấp nhất sự can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Cần hoàn thiện khung khổ pháp lý, thể chế để bước đầu tạo điều kiện hình thành một thị trường hoàn chỉnh “Thực hiện nghiêm túc Luật Doanh nghiệp; sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản doanh nghiệp; chống đặc quyền và lũng đoạn thị trường, ban hành Luật Cạnh tranh và Kiểm soát độc quyền trong kinh doanh” [31, tr.834]. Tuy nhiên, thị trường này phải “phù hợp với những điều kiện thực tế của Việt Nam”[31, tr.834]. Quan điểm này thể hiện phần nào sự dè dặt của Việt Nam trong việc áp dụng các tiêu chuẩn của KTTT thế giới, chủ trương xây dựng một cơ chế thị trường đồng bộ mới thực sự bắt đầu.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006) khẳng định quan điểm của Đảng về hình thành một thị trường minh bạch, cạnh tranh, công bằng có nhiều điểm mới. Đảng vẫn tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán “Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước độc quyền kinh doanh, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giá”[36, tr.186]. Để hạn chế và kiểm soát độc quyền của các DNNN,
Đảng đưa ra giải pháp: “thực hiện quản lý nhà nước về giá đối với một số hàng hoá, dịch vụ độc quyền phù hợp với cơ chế thị trường và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế” [36, tr.306]. Như vậy, quá trình kiểm soát độc quyền của Việt Nam không chỉ căn cứ vào tình hình thực tiễn trong nước mà còn dựa vào những nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm mới của Đảng thể hiện sự tiếp thu những quy luật kinh tế của KTTT, đồng thời là bước đi quan trọng đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với kinh tế thế giới.
Tiếp tục cụ thể hóa chủ trương tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh bằng cách “Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng” [36, tr.277]. Sự đổi mới diễn ra theo hướng Nhà nước sẽ không bao cấp tràn lan cho các DN cung ứng dịch vụ công (đại đa số là DNNN), mà các DN cung ứng dịch vụ công cộng sẽ phát triển theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực hiện hạch toán thu - chi không vì lợi nhuận. Tuy nhiên, quá trình giảm bao cấp của Nhà nước sẽ không diễn ra ngay lập tức mà “phải theo một kế hoạch đồng bộ và một lộ trình phù hợp”[36, tr.278] để đảm bảo không gây xáo trộn đời sống nhân dân và mất ổn định xã hội.
So với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2011), quan điểm của Đảng đã có bước tiến lớn trong nhận thức khi đề cập đến cải cách phương thức cung ứng các dịch vụ công của DN, để đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng giữa các thành phần kinh tế. Tuy rằng, cách tiếp cận vấn đề theo lộ trình phù hợp, chưa thể áp dụng ngay theo nguyên tắc của thị trường. Đảng chủ trương từng bước hình thành các yếu tố thị trường bằng cách đưa giá cả hàng hóa mà DN còn độc quyền sát hơn với giá trị trường, kiểm soát tốt tình trạng độc quyền của DNNN, tránh việc tăng giá gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, xã hội, sự hình thành giá cả một số hàng hóa đặc biệt vừa áp dụng theo cơ chế thị trường vừa có sự điều tiết của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước còn tương đối lớn, Đảng chưa thả nổi hoàn toàn giá cả hàng hóa theo thị trường, các quy luật của KTTT chưa được áp dụng đầy đủ do lo ngại những xáo trộn lớn của đời sống kinh tế, xã hội do thay đổi của cơ chế kinh tế tạo ra. Chính tình trạng bao cấp vẫn nặng nề đối với DNNN dưới các hình thức bảo lãnh tín dụng, kể cả vay nước ngoài; cổ phần hóa khép kín, không đánh giá và đấu giá tài sản theo thị trường; chậm chuyển sang theo giá thị trường các lĩnh vực như điện, xăng dầu, nước và một số dịch vụ sự nghiệp công... đã làm méo mó quan hệ thị
trường, gây tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, sử dung không hiệu quả tài sản công. Hệ lụy của nó chính là thất thoát tài sản qua cổ phần hóa, qua các vụ án Vinashin, Vinalines... ở nhiệm kỳ sau.
2.2.3.2. Tôn trọng tự do cạnh tranh, giảm dần độc quyền nhà nước
Đảng luôn có chủ trương tạo những điều kiện tốt nhất phát triển tất cả các thành phần kinh tế trong môi trường cạnh tranh, bình đẳng và hợp tác nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh.Các thành phần kinh tế được “tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh” [31, tr.831]. Đảng không chỉ quan tâm “Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa” [31, tr.721] mà còn chuẩn bị những điều kiện cần thiết để “từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh”[31, tr.721].
Tiếp tục nhấn mạnh đến quyền tự do kinh doanh, đầu tư của công dân trên mọi lĩnh vực pháp luật không cấm, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006) của Đảng đã nhấn mạnh: “Mọi công dân có quyền tự do đầu tư, kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền sở hữu tài sản hợp pháp” [36, tr.297]. Quyền bình đẳng trong sản xuất, kinh doanh của công dân được Đảng cụ thể thành quyền: “tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực phát triển, trong cung cấp và tiếp nhận thông tin”[36, tr.297]. Nhận thức của Đảng về các thành phần kinh tế có bước tiến lớn khi Đại hộixác định nền kinh tế nước ta có 5 thành phần kinh tế: KTNN, kinh tế tập thể, KTTN (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Trước đây thường ưu đãi cho thành phần KTNN, các thành phần kinh tế khác chưa nhận được nhiểu sự quan tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006) đã xóa bỏ tư tưởng đó, sẵn sàng “Thực hiện chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn đối với một số ngành, một số sản phẩm quan trọng, thiết yếu, một số mục tiêu, một số địa bàn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, không phân biệt thành phần kinh tế và phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta” [36, tr.298]
Như vậy, quan điểm bảo hộ quyền tự do kinh doanh của công dân, sự bình
đẳng của các thành phần kinh tế là xuyên suốt trong hai nhiệm kỳ Đại hội của Đảng.
Trong đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006) có bước phát triển mới khi cụ thể hóa quan điểm của Đảng trong nhiệm kỳ trước, để đường lối của Đảng rõ ràng, được thực hiện thống nhất trong cả nước.
2.2.4. Nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nâng cao vai trò của kinh tế tư nhân
2.2.4.1. Đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước
Thành phần KTNN bao gồm các DNNN, các tài nguyên quốc gia và tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác. Quan điểm xuyên suốt của Đảng là đưa KTNN đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Khẳng định tầm quan trọng của KTNN, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001) đã nêu rõ: “KTNN phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế”[29, tr.96]. Để thực hiện được vai trò ấy, Đảng đề ra nhiệm vụ cho DNNN (bộ phận quan trọng nhất của KTNN) phải “Hoàn thành về cơ bản việc sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả”[29, tr.96]. Đổi mới quản lý, sắp xếp, tổ chức lại DNNN tập trung vào các giải pháp chủ yếu:
Thứ nhất, “Phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của DN”[29, tr.97]. Quyền sản xuất, kinh doanh của DN phải được độc lập khỏi quyền của chủ sở hữu nhà nước (được thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước). Đảng cần giao cho hội đồng quản trị DN quyền đại diện chủ sở hữu gắn với quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh; quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với DN.
Thứ hai, “Tăng cường đầu tư chiều sâu và đổi mới công nghệ, tập trung cho những doanh nghiệp hoạt động trong một số ngành và lĩnh vực then chốt như công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp công nghệ cao”[29, tr.319].
Thứ ba, giảm dần tỷ lệ vốn sở hữu trong các DNNN, đồng thời khuyến khích KTTN bỏ vốn, mua lại phần vốn nhà nước. Để thực hiện nhiệm vụ này, cần phải “Hoàn thành cơ bản việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% sở hữu vốn” [29, tr.319], thậm chí sẵn sàng “sáp nhập,
giải thể hoặc phá sản các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả” [29, tr.319]. Cổ phần hoá DNNN được hiểu là một biện pháp chuyển DN từ sở hữu nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần và DN được chuyển hình thức hoạt động từ loại hình DNNN sang loại hình công ty cổ phần.
Thứ tư, Đảng chủ trương xây dựng “một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế” [29, tr.96], đồng thời “phát triển thêm DNNN đầu tư 100% số vốn hoặc cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng”[29, tr.96]
HNTƯ ba khóa IX (tháng 8-2001) đã cụ thể hóa chủ trương thành lập tập đoàn KTNN, các tập đoàn này sẽ: “có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân”[85, tr.1014]. Đây là chủ trương đúng đắn, thể hiện quyết tâm của Đảng trong việc hiện thực hóa vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế quốc dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần X của Đảng (4-2006) đưa ra các chủ trương, giải pháp nâng cao hiệu quả DNNN:
Thứ nhất, đưa DNNN vào môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Đảng sẽ kiên quyết “thu hẹp tối đa diện Nhà nước độc quyền kinh doanh, xoá bỏ đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước”[36, tr.300]. Tuy nhiên, để thực hiện những nhiệm vụ chính trị - xã hội nhất định, và để điều tiết nền kinh tế, sẽ vẫn có những DNNN được độc quyền một số ngành, lĩnh vực nhưng không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền DN. Đảng nhấn mạnh cần “có cơ chế giám sát và chính sách điều tiết đối với những doanh nghiệp chưa xoá bỏ được vị thế độc quyền kinh doanh”[36, tr.300]
Để tập trung giám sát tốt các DNNN đang hoạt động, Đảng đề ra chủ trương hạn chế thành lập mới các DNNN “chỉ thành lập mới DNNN khi hội đủ các điều kiện và trong những lĩnh vực sản xuất, cung ứng những sản phẩm, dịch vụ thật cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội và chủ yếu dưới hình thức công ty cổ phần” [36, tr.300].
Trước đây, Nhà nước trực tiếp rót vốn cho DNNN thông qua các bộ, ngành, địa phương như trước (các cơ quan này cũng đóng vai trò chủ sở hữu vốn tại DNNN) sẽ chuyển sang “Thực hiện cơ chế Nhà nước đầu tư vốn cho doanh nghiệp thông qua công ty đầu tư tài chính nhà nước” [36, tr.300]; đồng thời, để các thành phần kinh tế khác cũng có cơ hội phát triển, cũng như phát huy tính năng động của
mình, các DNNN cần phải “huy động thêm vốn trên thị trường, nhất là thị trường chứng khoán để phát triển kinh doanh” [36, tr.301].
Thứ hai, cổ phần hóa các DNNN theo nguyên tắc thị trường. Đối với các tổng công ty lớn, sẽ chưa tiến hành cổ phần hóa toàn bộ, mà chỉ cổ phần hóa hầu hết các DN thành viên, và chuyển các DN thành viên còn lại sang hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn có chủ sở hữu là Nhà nước.
HNTƯ sáu khóa X (1-2008), tiếp tục nhấn mạnh đến yêu cầu: “Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách để ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước trong quá trình cổ phần hóa;” [87, tr.1220]. Nhà nước cần tiếp tục: “Quản lý chặt chẽ các tổng công ty và một số tập đoàn kinh tế đa sở hữu có cổ phần chi phối của Nhà nước ở những lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với nền kinh tế.” [87, tr.1220].
Ngày 26-7-2010, Bộ Chính trị có Kết luận số 78-KL/TW về kết quả kiểm tra thực hiện Nghị quyết HNTƯ ba và Nghị quyết HNTƯ chín khóa IX và Nghị quyết Đại hội X của Đảng (4-2006) về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN và Đề án củng cố, phát huy vai trò của SCIC. Để hoàn thiện công tác sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, chủ trương của Đảng là: “chấn chỉnh tình trạng tập đoàn, tổng công ty mở quá rộng ngành nghề mới nhưng không liên quan đến ngành nghề chính, không góp phần làm cho ngành nghề chính lớn mạnh mà còn làm cho nguồn lực tập đoàn, tổng công ty bị phân tán, mang nhiều rủi ro trong kinh doanh”[165]. Đồng thời, phải có thu hút nhân tài vào chức danh quản lý của DNNN. Đảng cần chăm lo việc xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giỏi ở các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Tập trung củng cố hoạt động của Tổng công công ty kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) để làm tốt chức năng đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước tại các doanh nghiệp.
Như vậy, giải pháp đổi mới, sắp xếp các DNNN chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ cổ phần hóa các DNNN, trao thêm quyền tự chủ cho DNNN và thay đổi cách thức đầu tư, quản lý các DNNN bằng việc thành lập Công ty SCIC. Các DNNN sẽ được trao nhiều quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, đồng thời cũng xóa bỏ một số đặc quyền để bước vào môi trường cạnh tranh công bằng với các thành phần kinh tế khác. Bên cạnh quyền tự chủ, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước cũng cần được sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.
2.2.4.2. Nâng cao vai trò, vị trí kinh tế tư nhân
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001), Đảng khẳng định tầm quan trọng của KTTN thông qua “khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm”[29, tr.98]; “Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài” [29, tr.98-99]. Để KTTN có thể phát triển bền vững: “khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động…. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động”[29, tr.99]. Khi nhận được sự đảm bảo rõ ràng về công ăn việc làm và lợi tức cổ phần, người lao động sẽ cống hiến hết mình cho DN. Do vậy, DN sẽ có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Trong mối quan hệ với KTNN, KTTN cùng hợp tác, liên kết phát triển, chứ không phải loại bỏ nhau: “khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và với doanh nghiệp nhà nước”[29, tr.99] Tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng trong việc phát triển khu vực KTTN,
tháng 5-2002, HNTƯ năm khóa IX đã cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (4-2001). Để KTTN không ngừng phát triển, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, Đảng đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp:
Thứ nhất, thống nhất các quan điểm chỉ đạo phát triển KTTN, xác định vị trí, vai trò “KTTN là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN”[87, tr.1034].
Thứ hai, sửa đổi một số cơ chế chính sách “bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lựa chọn các điều kiện để phát triển”[87, tr.1036]. Đảng nhấn mạnh sẽ tiếp tục sửa đổi chính sách trong lĩnh vực đất đai để doanh nghiệp tư nhân được dùng giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp cổ phần liên doanh với doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Thứ ba, các cơ quan quản lý Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để KTTN phát triển theo hướng “xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh; xây dựng quy hoạch và trợ giúp đào tạo cán bộ quản lý cho DN ”[87, tr.1039]. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý Nhà nước trong công tác thanh, kiểm tranh cần công khai, minh bạch, và đặc biệt “chịu trách