Nội Dung Chức Năng Kinh Tế Của Nhà Nước Việt Nam Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.

đoạn phát triển cụ thể hoặc đưa vào khái niệm chức năng nhà nước những phương pháp, cách thức Nhà nước thực hiện chức năng của mình trong thực tiễn, là các hình thức hoạt động của Nhà nước đối với môi trường xung quanh, đối với xã hội và với các quốc gia khác. Có quan điểm lại cho rằng chức năng của Nhà nước không chỉ là những phương hướng hoạt động chủ yếu của Nhà nước mà còn là cơ chế tác động của Nhà nước lên các quá trình xã hội, bởi khi thực hiện những chức năng nhất định trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, Nhà nước bằng các cuộc cải cách, bằng sự điều chỉnh pháp luật, bằng các cách thức tổ chức và quản lý các quan hệ xã hội mà tác động lên trạng thái của các quá trình xã hội... Nói chung từ những khác biệt nhất định trong mỗi cách hiểu về chức năng của Nhà nước, các quan điểm trên đều xuất phát trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất, vị trí, vai trò của Nhà nước trong đời sống xã hội, đặt hiện tượng Nhà nước trong quá trình vận động và phát triển của xã hội theo các quy luật khách quan của nó.

Trong điều kiện hiện nay, để góp phần xác định đầy đủ khái niệm về chức năng của Nhà nước, theo chúng tôi cần tiếp cận phạm trù chức năng nhà nước gắn liền với bản chất nhà nước và vai trò của Nhà nước đối với đời sống xã hội. Nhận thức bản chất, vai trò của Nhà nước, có thể khẳng định rằng Nhà nước có chức năng duy trì sự tồn tại và phát triển của toàn xã hội; và điều tiết các quan hệ xã hội, tổ chức đời sống cộng đồng phù hợp với ý chí của giai cấp cầm quyền. Như vậy, những điều kiện kinh tế, xã hội quyết định sự ra đời và tồn tại của Nhà nước. Bản chất, vai trò của Nhà nước có liên quan mật thiết đến chức năng nhà nước. Khi bản chất nhà nước thay đổi thì chức năng nhà nước cũng thay đổi cho phù hợp với bản chất nhà nước mới. Vì vậy, các chức năng nhà nước và nội dung của nó luôn có sự vận động, biến đổi làm xuất hiện những chức năng mới hoặc mất đi những chức năng nào đó hoặc có những chức năng nhà nước tồn tại qua nhiều chế độ xã hội khác nhau nhưng

nội dung và phương pháp thực hiện chúng lại khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, vào bản chất của Nhà nước đó. Từ bản chất, vai trò nhà nước có thể xác định chức năng nhà nước, ngược lại vai trò và chức năng nhà nước lại là những biểu hiện sinh động cho bản chất nhà nước. Vai trò của Nhà nước là nền tảng để xác định, cụ thể hóa các chức năng của Nhà nước, đồng thời các chức năng nhà nước cũng chính là những biểu hiện cho vai trò nhà nước. Trên cơ cở nhà nước thực hiện các chức năng của mình cũng đồng thời là lúc Nhà nước thực hiện vai trò quản lý và điều hành các hoạt động xã hội, làm cho các quan hệ xã hội có những bước chuyển phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế.

Theo từ điển bách khoa Việt Nam, chức năng của Nhà nước nói chung là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với xã hội. Có nhiều cách phân loại khác nhau về chức năng của Nhà nước. Trong khoa học pháp lý, chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay được phân loại thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội bao gồm: chức năng tổ chức và quản lý kinh tế; chức năng giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục khoa học và công nghệ...Các chức năng đối ngoại bao gồm : chức năng bảo vệ tổ quốc XHCN, chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực... Qua phân loại có thể thấy chức năng của Nhà nước bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Các chức năng đó chính là những mặt hoạt động cụ thể của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với xã hội. Nhà nước thực hiện các chức năng của mình để giải quyết vấn đề lợi ích mà trước hết là lợi ích kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người là ăn, mặc, ở trước khi tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. Như vậy, từ phạm trù chức năng của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với đời sống xã hội có thể hình thành nên khái niệm chức năng kinh tế của Nhà nước như là một bộ phận

của khái niệm chức năng nhà nước, cũng như chức năng xã hội, chức năng chính trị của Nhà nước. Từ đó có thể định nghĩa: Chức năng kinh tế của Nhà nước là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có thể xác định chức năng kinh tế của Nhà nước là hoạt động cơ bản của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Chức năng kinh tế của Nhà nước không tồn tại biệt lập, tách rời với các chức năng khác của Nhà nước. Trong mọi chức năng của Nhà nước đều bao hàm những nội dung kinh tế và trong chức năng kinh tế cũng không có mục đích nào khác là vì sự phát triển đẩy đủ và toàn diện của con người. Do vậy, chức năng kinh tế của Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với các chức năng khác của Nhà nước.

Trước hết là mối quan hệ giữa chức năng kinh tế với chức năng xã hội của Nhà nước thể hiện ở mối liên hệ giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội là hai lĩnh vực có mối liên hệ chặt chẽ đến mức có thể nói chính sách kinh tế của Nhà nước là chính sách xã hội trên lĩnh vực kinh tế. Chức năng kinh tế của Nhà nước nhằm mục tiêu trực tiếp là tạo ra các điều kiện vật chất, sự tăng trưởng và phát triển bền vững đất nước. Còn chức năng xã hội của Nhà nước có mục tiêu trực tiếp là đảm bảo sự ổn định, công bằng, sự phát triển hài hòa và an toàn xã hội. Xã hội càng phát triển càng nảy sinh những vấn đề xã hội phức tạp, không chỉ của riêng một quốc gia nào mà còn trở thành vấn đề cần quan tâm của toàn nhân loại. Vì vậy, việc tăng cường thực hiện các chức năng xã hội của Nhà nước trở thành nội dung quan trọng trong hoạt động của các nhà nước trên thế giới. Nhưng Nhà nước không thể thực hiện được chức năng xã hội của mình nếu không thực hiện tốt chức năng kinh tế. Nói cách khác, chức năng kinh tế là tiền đề để Nhà nước thực hiện chức năng xã hội vì chức năng xã hội của Nhà nước không thể triển khai được nếu trong tay Nhà nước

không có tiềm lực vật chất. Tuy nhiên chức năng kinh tế và chức năng xã hội của Nhà nước cũng có ranh giới nhất định. Bởi lẽ Nhà nước muốn thực hiện vai trò to lớn trong việc ổn định xã hội, phát huy mạnh mẽ các nguồn lực của đất nước mà trong đó yếu tố con người là quan trọng nhất thì trước hết Nhà nước cần phải tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Hoạt động của Nhà nước trong giải quyết các vấn đề xã hội không phải là những hoạt động mang tính chủ quan, duy ý chí mà phải tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và trên cơ sở khả năng kinh tế của đất nước.

Mặt khác, chức năng kinh tế của Nhà nước có mối quan hệ mật thiết với chức năng chính trị của Nhà nước thể hiện ở bản chất giai cấp, chế độ chính trị tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế. Chức năng kinh tế của Nhà nước có mục tiêu trực tiếp là tăng trưởng kinh tế, còn chức năng chính trị của Nhà nước có mục tiêu trực tiếp là tạo ra nền tảng chính trị ổn định, giữ vững định hướng phát triển cũng như bản chất của nền kinh tế. Nhà nước không thể không coi trọng những nội dung kinh tế trong các chính sách, đường lối chính trị của mình và với mỗi quốc gia, đường lối phát triển kinh tế trở thành nội dung quan trọng nhất của đường lối, chính sách chính trị của giai cấp cầm quyền, của Nhà nước. Trong thời đại ngày nay, nhất là khi toàn cầu hóa đang trở thành xu thế tất yếu, các quốc gia ngày càng mở rộng hợp tác và quan hệ chặt chẽ với nhau về kinh tế thì vấn đề chính trị trong mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi thế giới không nằm ngoài lợi ích kinh tế. Do vậy, chức năng kinh tế là phương thức thể hiện đặc thù của chức năng chính trị, còn chức năng chính trị định hướng, mở đường và tạo điều kiện cho chức năng kinh tế phát triển. Việc chăm lo phát triển nền dân chủ và mở rộng quan hệ ngoại giao theo chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa đã tạo điều kiện chính trị quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.

Chức năng kinh tế của Nhà nước Việt Nam tương ứng với vai trò kinh tế của Nhà nước trong mỗi mô hình kinh tế. Do vậy, khi vai trò kinh tế của Nhà nước chuyển đổi thì chức năng kinh tế của Nhà nước cũng phải được xác định cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế mới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

1.2. Nội dung chức năng kinh tế của Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chức năng kinh tế của Nhà nước là hoạt động cơ bản của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế của Nhà nước ta đã được nhận thức và xác định rõ hơn qua các Đại hội Đảng toàn quốc, đặc biệt là quá trình đổi mới cơ chế kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của nhà nước để định hướng phát triển kinh tế xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, đảm bảo cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật”. [102, 4]. Từ quan điểm tiếp cận những hoạt động cơ bản của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chức năng kinh tế của Nhà nước bao gồm những nội dung sau:

Chức năng kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - 3

1.2.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế.

Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh, các mệnh lệnh hành chính là công cụ quản lý kinh tế chủ yếu của Nhà nước. Chuyển sang cơ chế thị trường, Nhà nước sử dụng phương pháp kinh tế, vận dụng các quy luật kinh tế để quản lý, đảm bảo hiệu quả quản lý thông qua các công cụ vĩ mô như pháp luật, kế hoạch, chính sách...Đại hội lần thứ VII của Đảng đã nêu rõ: Nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường bằng pháp

luật, bằng kế hoạch và các công cụ chính sách kinh tế, trong đó kế hoạch hóa vẫn là khâu trung tâm. Nội dung của kế hoạch vĩ mô trong nền kinh tế thị trường là sự cụ thể hóa những quyết định chiến lược, đảm bảo hiện thực hóa mục tiêu đề ra trong chính sách của Nhà nước. Trước đây, trong cơ chế cũ kế hoạch hóa là kế hoạch với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết và cụ thể. Nhà nước là người vạch ra và tổ chức thực hiện toàn bộ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội thông qua công cụ kế hoạch, xác định mọi vấn đề từ giá cả, cung cấp vật tư, tiêu thụ sản phẩm của các xí nghiệp, đồng thời xác định các tỷ lệ, các cân đối lớn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường chủ yếu là kế hoạch gián tiếp, hướng dẫn và tổng quát thể hiện tính năng động gắn với hiệu quả và lợi ích kinh tế. Với tính định hướng, kế hoạch nhà nước chỉ tập trung vào việc thiết lập các cân đối lớn của nền kinh tế như giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa xuất và nhập khẩu....Trong nền kinh tế hàng hóa các đơn vị kinh tế trực tiếp giáp mặt với thị trường, họ có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh nên họ hiểu phải làm gì và làm như thế nào để phù hợp với phương hướng, mục tiêu của kế hoạch nhà nước và đáp ứng nhu cầu của thị trường. Nhà nước là người đưa ra dự kiến về khả năng phát triển kinh tế thông qua các định hướng chiến lược, các chính sách cụ thể. Và trong quá trình thực hiện, Nhà nước sẽ điều chỉnh và thay đổi chính sách, biện pháp nhằm hướng dẫn hành vi của các đơn vị kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Còn bản thân các đơn vị kinh tế phải chủ động tiếp cận thị trường để vạch ra chiến lược kinh doanh và tự điều chỉnh hoạt động của mình trên cơ sở chiến lược và chính sách cụ thể của Nhà nước. Như vậy, kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường đã xóa bỏ mọi hình thức áp đặt trong giao nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh, đảm bảo quyền tự chủ kế hoạch cho các chủ thể, kích thích các nhà kinh doanh cạnh tranh, cải tiến kỹ thuật công nghệ để đứng vững trên thị trường. Kế hoạch vừa

là môi trường, vừa là hành lang hoạt động của các đơn vị kinh tế, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất kinh doanh.

1.2.2. Xây dựng hệ thống pháp luật và đổi mới công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô.

Nhà nước tạo khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế thị trường hoạt động. Bằng sự điều chỉnh của pháp luật, Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế. Có thể xem pháp luật như hai bờ của một dòng chảy, bờ có nhiệm vụ đi theo dòng chảy chứ không thể sản sinh hay thay thế dòng chảy, nhưng có thể hạn chế hay tăng tốc cho dòng chảy và giữ cho dòng chảy đúng hướng. Nền kinh tế thị trường là hệ thống phức tạp và đầy biến động, các hoạt động kinh tế đều hướng tới lợi ích cục bộ, vì vậy sự bất ổn, rủi ro và sự xâm phạm lợi ích lẫn nhau có thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu không có những quy tắc đủ mạnh để điều chỉnh. Từ nhu cầu khách quan đó mà pháp luật trở thành công cụ không thể thay thế để đảm bảo cho các quan hệ kinh tế diễn ra theo trật tự nhất định.[35, 49]

Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước đóng vai trò lãnh đạo thống nhất toàn bộ nền kinh tế quốc dân đồng thời cũng vừa là người điều hành, người tổ chức các hoạt động kinh tế. Do vậy, không phân biệt được đâu là Nhà nước, đâu là đơn vị kinh tế. Nhà nước hòa lẫn trong mình hai tư cách chủ thể: Chủ thể quản lý nền kinh tế quốc dân và chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi sản xuất kinh doanh. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, yêu cầu đặt ra là Nhà nước cần phải xác định rõ tư cách là chủ thể quản lý nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tác động, điều chỉnh các hoạt động kinh tế với tư cách là cơ quan công quyền mà không can thiệp trực tiếp vào các quan hệ thị trường. Hoạt động sản xuất kinh doanh là quyền của các chủ thể hoạt động kinh tế. Vì vậy, bằng cách gián tiếp, Nhà nước tạo ra khung pháp lý cho các chủ thể tự do hoạt động, tuy nhiên các quan hệ đó vẫn diễn ra dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.

Cơ chế kinh tế cũ với sự thừa nhận hai thành phần kinh tế là toàn dân và tập thể, vai trò cũng như nội dung căn bản của pháp luật là công cụ bảo vệ chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, bảo vệ trật tự quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo kế hoạch thống nhất. Chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường, với cơ cấu chủ thể kinh tế đa dạng, quan hệ kinh tế của các chủ thể là quan hệ bình đẳng, tự do, Nhà nước bằng pháp luật quy định tư cách chủ thể; ngăn ngừa các yếu tố tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo môi trường để vận hành các quan hệ kinh tế một cách thuận lợi, thông thoáng, an toàn, đồng thời định ra các phương thức nhằm duy trì và đảm bảo trật tự kinh tế diễn ra theo đúng mục tiêu đã định.

Tác động quản lý và điều tiết của pháp luật còn được thể hiện thông qua việc thể chế hóa chiến lược, chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn để triển khai thực hiện.

* Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh, ổn định nền kinh tế thông qua các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng là những đòn bẩy tác động đến nền kinh tế nhằm kiểm soát và hạn chế hậu quả trước các biến động bất lợi của thị trường. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tài chính đóng vai trò thụ động, thứ yếu vì các mục tiêu kế hoạch và năng lực vật chất được tính theo hiện vật. Chuyển sang nền kinh tế thị trường nền tài chính đất nước phải chuyển từ cơ chế tài chính vi mô sang cơ chế tự chủ về tài chính, từ tài chính đơn nhất về sở hữu sang tài chính đa sở hữu. Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp là phân biệt rõ quyền sở hữu nhà nước với quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Nhà nước quản lý vĩ mô về tài chính đối với các doanh nghiệp thông qua các công cụ như thuế, lãi suất, tỉ giá... Trong việc sử dụng các công cụ tiền tệ, tín dụng để điều tiết nền kinh tế thị trường, Nhà nước tập trung vào các khâu như ổn định tỷ giá hối đoái, xác định lãi suất trần; quản lý ngoại hối, tăng sức mua của đồng tiền trong nước đồng thời đảm bảo chế độ tự do hóa thương mại, giá cả. Nhà nước tiến hành

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/02/2023