Về vai trò của Nhà nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) nêu rõ: “tạo điều kiện cho các sơ sở kinh tế hoạt động hiệu quả. Nhà nước kiểm soát và điều kiển các xí nghiệp và đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế bằng pháp luật, chính sách kinh tế thay cho việc can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp” [31, tr.69]. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996), Nhà nước thực hiện tốt các chức năng: định hướng sự phát triển; trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực phát triển theo định hướng XHCN; thiết lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt; khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực của thị trường; phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân; quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội.
Bên cạnh đó, nhận thức của Đảng còn một số hạn chế:
Đảng dường như sử dụng cơ chế thị trường làm một phương tiện để giải phóng sức sản xuất do cơ chế cũ nén lại, chưa thấy được cơ chế thị trường là một cơ chế phân bổ nguồn lực trong xã hội hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất. Vì vậy, Nhà nước vẫn chưa tin ở thị trường, còn trực tiếp phân bổ đất đai, vốn. Điều này khiến nhiều người cho rằng đây là một sách lược tạm thời, không phải là một đường lối chiến lược nhất quán.
Mặc dù thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nhưng vẫn còn phân biệt đối xử trong tiếp cận các nguồn lực đất đai, vốn, chưa được tham gia vào các dự án sử dụng đầu tư công. Vai trò chủ đạo của DNNN đã lấn át KTTN, chủ trương cổ phần hóa được đặt ra nhưng không được tổ chức thực hiện để tạo dư địa cho KTTN phát triển cũng như năng động hóa bản thân DNNN. Vai trò, vị trí của KTTN trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong hội nhập chưa được xác định rõ
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, theo các quy luật thị trường, nhưng chưa phải là các quy luật đầy đủ của KTTT. Quan hệ cung cầu chưa hài hòa cân bằng, giá cả hàng hóa vẫn bị nhà nước vẫn can thiệp. Cạnh tranh chưa có môi trường thể chế để đảm bảo, nên xuất hiện độc quyền lĩnh vực này, lĩnh vực khác của DNNN.
Việc phân bổ các nguồn lực trong xã hội, mà chủ yếu là đảm bảo sự công bằng trong cơ hội tiếp cận các nguồn lực: vốn, lao động và đất đai có sự thiên vị, khi Nhà nước ưu tiên cho các DNNN, ít quan tâm đến hỗ trợ cho thành phần KTTN.
DNNN được hưởng nhiều ưu đãi trong khi KTTN phải vật lộn để sinh tồn trong cơ
chế thị trường.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Việt Nam
- Kết Quả Của Các Công Trình Đã Được Công Bố Và Những Vấn Đề Luận Án Tập Trung Nghiên Cứu
- Cơ Sở Hình Thành Đường Lối Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Việt Nam (2001 – 2010)
- Phân Bổ Nguồn Lực Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa
- Chủ Động Và Tích Cực Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Thúc Đẩy Phát Triển Các Yếu Tố Thị Trường, Các Loại Thị Trường, Các Chủ Thể Của Kinh Tế Thị Trường
Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.
Quản lý của Nhà nước chưa thích ứng được trong cơ chế quản lý kinh tế mới: Quy hoạch của Nhà nước nhằm dẫn dắt tư nhân đầu tư, nước ngoài đầu tư, loại bỏ các nguồn vốn đầu tư kém chất lượng, gây hại môi trường thì chưa làm được. Nhà nước nắm vững nhiều lĩnh vực thông qua DNNN, khiến tư nhân không còn dư địa đầu tư, Nhà nước không phải đóng vai trò trọng tài, mà đi kinh doanh. Nhà nước can thiệp đến mức độ nào, chưa có biên độ rõ ràng. Dó đó, khu vực dịch vụ sự nghiệp công quy mô quá lớn, quá sức chịu đựng của nguồn ngân sách bao cấp, mặc dù bắt đầu có chủ trương xã hội hóa.
Như vậy, qua 15 năm đổi mới, Đảng đã hình thành những nhận thức lý luận mới về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, nhận thức lý luận mới đó chưa khái quát thành một mô hình kinh tế tổng quát của đất nước, chủ yếu tồn tại dưới dạng “dò đá quá sông”. Do đó, để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững khi bước sang thế kỷ XXI đòi hỏi phải định hình rõ ràng một mô hình kinh tế tổng quát, không chỉ mang ý nghĩa thông điệp chính trị cho người dân, doanh nghiệp, bạn bè quốc tế, mà cơ bản hơn là khung khổ lý luận cho nhận thức và hành động trong điều kiện phát triển mới.
2.1.2. Điều kiện quốc tế
2.1.2.1. Toàn cầu hóa tạo cơ hội và thách thức cho phát triển đất nước
Việt Nam thoát khỏi bao vây, cấm vận của các nước phương Tây cũng là lúc toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, gây nên những tranh cãi giữa những người ủng hộ và phản đối toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa dưới góc độ kinh tế là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế phát triển vượt qua các rào cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan tỏa ra phạm vi toàn cầu, trong đó có hàng hóa, vốn, lao động, tiền tệ, thông tin,
…Dưới tác động của toàn cầu hóa, nhu cầu hội nhập kinh tế giữa các quốc gia ngày càng lớn biểu hiện là các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương, với sự tham dự của các nhà nước dân tộc, các tổ chức kinh tế mang tính khu vực và toàn cầu (WTO, WB, IMF, ADB...), các tập đoàn xuyên quốc gia. Toàn cầu hóa khiến các quốc gia không thể đứng đơn lẻ, cần phải gia tăng hợp tác, liên kết với nhau, hình thành các chuỗi cung ứng, sản xuất hàng hóa mang tính toàn cầu, Việt Nam
muốn phát triển cũng không thể đứng ngoài xu thế này. Khi Việt Nam tham gia trong chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ gắn kết nền kinh tế của mình với thị trường thế giới; thể chế kinh tế Việt Nam cần có những thay đổi nhất định, phù hợp với các quy định của quốc tế, tương thích với hệ thống luật pháp toàn cầu.
Khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 (bắt đầu từ Thái Lan rồi nhanh chóng lan sang Philippines, Maylaisia, Indonesia, Hàn Quốc,..) tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam: Hàng hóa của các nước Đông Nam Á tràn sang Việt Nam do đồng nội tệ của họ bị mất giá mạnh khiến hàng hóa đó rẻ hơn nhiều so với hàng trong nước; nhiều DN Việt Nam đứng trước nguy cơ phá sản do không xuất khẩu được hàng hóa hoặc do hàng hóa không thể cạnh tranh được ngay ở thị trường trong nước; đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng: FDI đăng kí năm 1997 chỉ đạt hơn 5,5 tỷ USD ( so với 10,1 tỷ USD năm 1996) [89, tr.176]
Cuộc khủng hoảng đã bộc lộ những mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, đòi hỏi Việt Nam cần tích cực xây dựng nội lực nền kinh tế, mang tính độc lập, tự chủ trước các biến động của thị trường quốc tế. Sâu xa là cần định hình một mô hình có khả năng giữ vững định hướng XHCN trong quá trình hội nhập kinh tế.
2.1.2.2. Cách mạng khoa học, công nghệ diễn ra mạnh mẽ
Cách mạng khoa học và công nghệ làm cơ cấu kinh tế của các quốc gia có sự thay đổi, nhiều ngành kinh tế một thời huy hoàng bắt đầu có dấu hiệu đi xuống: Sắt thép, xi măng,… nhiều ngành kinh tế mới phát triển rất nhanh (điện tử, máy tính, internet, vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ sinh học). Các quốc gia đều ra sức tận dụng thành tựu nguồn lực khoa học và công nghệ để tạo động lực cho phát triển kinh tế, cơ cấu lại mô hình tăng trưởng trong điều kiện nguồn lực tự nhiên ngày càng khan hiếm.
Dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, nền kinh tế thế giới chuyển từ kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, từ sỡ hữu hiện vật sang sở hữu giá trị. Trong nền kinh tế tri thức thì khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố hàng đầu quyết định đến việc sản xuất ra của cải, sức cạnh tranh và triển vọng phát triển của mỗi quốc gia. Nền kinh tế Việt Nam muốn phát triển thì không thể không phát triển khoa học và công nghệ. Để có nền khoa học và công nghệ phát triển, cần khơi thông các “rào cản”, tạo ra nhiều động lực
thúc đẩy các nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học, công nghệ, thúc đẩy thương phẩm hóa các phát minh sáng chế, hình thành thị trường khoa học, công nghệ, gắn kết giữa nhà khoa học và doanh nghiệp.
Cách mạng khoa học công nghệ kỹ thuật số dẫn đến phát triển mạnh mẽ ngành điện tử, internet, mở rộng xã hội thông tin, ở Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu hình thành những tập đoàn tư bản kỹ thuật số nhanh chóng vươn lên thay thế các tập đoàn công nghiệp truyền thống. Điều này khiến cho nền kinh tế của Việt Nam gia tăng khả năng kết nối với nền kinh tế toàn cầu. Những thông tin về sự phát triển của lực lượng sản xuất mới, của các thị trường hàng hóa, lao động, vốn, khoa học công nghệ được gửi đi nhanh chóng đòi hỏi các thị trường phải có sự thay đổi, thích nghi nhanh chóng. Những quốc gia nào nắm bắt được thông tin nhanh nhạy từ thị trường sẽ có thay đổi chính sách phù hợp, linh hoạt để phù hợp với thực tiễn.
2.1.2.3. Âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
Các nước phương Tây và thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá công cuộc đổi mới, chế độ XHCN ở Việt Nam. Âm mưu, thủ đoạn chống phá ngày càng trở nên tinh vi, đa dạng và thâm độc hơn. Trong đó, lợi dụng chính sách mở cửa, quan hệ rộng mở của nước ta để họ thực hiện chính sách can thiệp, hướng lái con đường hướng phát triển đất nước, khiến Việt Nam chệch hướng XHCN, rơi vào quỹ đạo CNTB.
Các nước phương Tây ra sức cổ vũ cho chủ nghĩa tự do, thúc đẩy “tư nhân hóa” ở nước ta. Nhiều dự án hợp tác, các chương trình hỗ trợ kinh tế của Mỹ, Châu Âu, Ngân hàng thế giới (WB),… có nội dung trợ giúp khu vực KTTN phát triển. Họ cho rằng: Sự phát triển của các DNVVN, các hình thức trang trại, sản xuất cá thể, hộ gia đình,…không hề mất đi mà vẫn phát triển đa dạng, phong phú. Mức độ cạnh tranh của các nền kinh tế trên thế giới ngày càng mạnh mẽ, các nền kinh tế chỉ có thể phát triển một cách hiệu quả khi nó huy động được tất cả mọi nguồn lực của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế tham gia.
Do vậy, họ khuyến cáo Việt Nam cần tích cực thúc đẩy quá trình “tư nhân hóa” các DNNN, mở cửa thị trường cho khu vực KTTN và doanh nghiệp nước ngoài mua lại cổ phần của DNNN. Bên cạnh đó, các nước phương Tây cũng tìm cách thúc đẩy hình thành các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam. Họ cho rằng, các tổ
chức xã hội dân sự cùng với nhà nước và DN sẽ tham gia có hiệu quả vào quá trình xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách thể chế KTTT định hướng XHCN.
Những chính sách của các nước phương Tây thực tế là muốn cổ xúy triệt để các quy luật KTTT, tích cực “xuất khẩu” mô hình thị trường tự do ở các nước TBCN vào Việt Nam, khiến nền kinh tế ở Việt Nam chệch hướng XHCN, mất khả năng độc lập và tự chủ, thực hiện “chiến thắng không cần chiến tranh”. Họ coi đây là những điều kiện cơ bản khi xem xét Việt Nam có phải là một nền KTTT đầy đủ hay không. Điều này gây áp lực rất lớn đối với Việt Nam trong đổi mới nhận thức lý luận và cải cách thể chế kinh tế, đòi hỏi sự cảnh giác, thận trọng trước mỗi bước đổi mới kinh tế để không rơi vào quỹ đạo “chủ nghĩa tự do”, giữ vững mục tiêu, định hướng phát triển.
2.1.2.4. Các nước XHCN trước kia chuyển nền kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường và xuất hiện chủ nghĩa tự do mới
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX, hệ thống kinh tế của các nước XHCN: Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc… gặp khủng hoảng nghiêm trọng, nhịp độ tăng trưởng chậm lại, không có khả năng cạnh tranh so với các nền kinh tế TBCN. Do đó, hầu hết các nước này đều chuyển đổi mô hình kinh tế từ tập trung, bao cấp sang nền KTTT ( với mức độ can thiệp của Nhà nước vào thị trường không giống nhau). Sau thời gian áp dụng cơ chế quản lý kinh tế theo hướng thị trường, các nền kinh tế của các nước cộng hòa thuộc Liên Xô (cũ) và Đông Âu nhanh chóng lấy được đà tăng trưởng kinh tế, khắc phục được khủng hoảng kinh tế - xã hội trong giai đoạn trước, bước đầu ổn định đời sống nhân dân. Tại Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra đường lối xây dựng nền KTTT XHCN, vận dụng những quy luật của KTTT để xây dựng chế độ XHCN mang đặc sắc Trung Quốc. Nền kinh tế Trung Quốc đã có những bước phát triển vượt bậc, với tốc độ tăng trưởng kinh tế lên tới hai con số.
Bên cạnh đó, từ những năm 70 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tự do mới được phát triển rộng khắp trên thế giới, từ châu Âu sang châu Á, Mỹ La tinh. Chủ nghĩa tự do mới là một trường phái kinh tế tập trung vào các giá trị của một nền kinh tế toàn cầu (toàn cầu hóa) thị trường tự do, thương mại tự do và sự lưu thông không hạn chế của dòng vốn; nguyên tắc hoạt động là: chính phủ tối thiểu, chi tiêu tối thiểu, đánh thuế tối thiểu, điều tiết tối thiểu và can thiệp trực tiếp tối thiểu vào nền kinh tế. Do vậy, ở châu Âu, Mỹ xuất hiện quá trình tư nhân hóa ồ ạt các doanh nghiệp nhà nước làm ăn
không hiệu quả, rút nhà nước ra khỏi các hoạt động kinh doanh, chính phủ tách rời khỏi hoạt động kinh doanh, giảm sự can thiệp của các cơ quan nhà nước vào hoạt động kinh doanh, sản xuất và chấm dứt trợ cấp của chính phủ đối với nhiều ngành nghề, mặt hàng.
Sự thay đổi đường hướng phát triển kinh tế của các nước XHCN trước kia, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tự do mới đã phần nào làm nổi bật được vai trò điều tiết của thị trường trong phát triển kinh tế. Điều này sẽ có tác động không nhỏ đến việc lựa chọn đường lối kinh tế ở Việt Nam
2.2. NHẬN THỨC BƯỚC ĐẦU CỦA ĐẢNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM (2001 – 2010)
Nhận thức lý luận về nền KTTT định hướng XHCN có vị trí, vai trò quan trọng hàng đầu trong đường lối chung phát triển đất nước, thể hiện sự lãnh đạo chính trị của Đảng trên lĩnh vực kinh tế, chứa đựng các nội dung cụ thể sau đây:
2.2.1. Mô hình cấu trúc của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến mới, đòi hỏi Đảng cần đổi mới tư duy mạnh mẽ về phát triển kinh tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4- 2001) lần đầu tiên đưa ra khái niệm “nền KTTT định hướng XHCN”, coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, đó là: “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [31; tr.635]. Nền KTTT định hướng XHCN không rập khuôn theo nền KTTT đang tồn tại ở các nước phương Tây lúc bầy giờ, dù là kinh tế thị trường tự do (Mỹ), KTTT xã hội (Bắc Âu), hay KTTT XHCN (Trung Quốc). Đây là một mô hình kinh tế vừa vận dụng các quy luật của KTTT để giải phóng sức sản xuất, vừa định hướng cao về mặt xã hội, thể hiện được những ưu việt, nhân văn của chế độ XHCN. Nền KTTT định hướng XHCN khắc phục những khuyết tật, hạn chế của thị trường tự do, tránh vết xe đổ của các nước phương Tây trong việc phát triển KTTT nhất là tình trạng phân hóa giảu nghèo thái quá, tài sản rơi vào tay thiểu số giai cấp hữu sản giàu có, bất bình đẳng xã hội lên cao, khai thác cạn kiệt tài nguyên, tàn phá môi trường
Tính định hướng XHCN, hay nói cách khác là bản chất của nền KTTT ở Việt
Nam phản ánh tính đặc thù của Việt Nam so với nền KTTT ở các nước khác trên
thế giới. Tính định hướng XHCN đã được đề cập một cách rõ ràng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4-2006):
Về mục tiêu, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Về chế độ sở hữu, cơ cấu thành phần kinh tế, Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”[36, tr.184].
Về định hướng xã hội chủ nghĩa, được bảo đảm bằng vai trò chủ đạo của KTNN, bằng xây dựng luật pháp quản lý mọi thành phần kinh tế cùng tuân theo pháp luật, cạnh tranh bình đảng, thực hiện “tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người” [36; tr.184], nhất là phân phối kết quả sản xuất chủ yếu dựa vào lao động, đồng thời thừa nhận các hình thức phân phối khác, thông qua hệ thống an sinh xã hội.
Vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước là những nhân tố quyết định nhất bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Đảng nêu rõ “Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” [36; tr.184]. Vai trò điều tiết nền kinh tế của Nhà nước bằng sử dụng các công cụ chính sách tài khóa (thuế, phí, lệ phí, đầu tư công... và tài chính (tỷ giá, tín dụng....), các nguồn lực mà nhà nước nắm giữ để giữ vững định hướng XHCN thể hiện sự khác nhau cơ bản giữa nền kinh tế KTTT định hướng XHCN với các nền KTTT tự do. Sự quản lý nền kinh tế bằng pháp luật đảm bảo mục đích của nền kinh tế, sự vận động của chế độ sở hữu và phân phối theo định hướng XHCN, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mỗi người, trong đó quan tâm đến lợi ích thiết thân của người lao động. Quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ định hướng chính trị, công tác tư tưởng, vận động quần chúng thực hiện.
Hội nghị Trung ương (HNTƯ) sáu khóa X tiếp tục khẳng định lại nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN “là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của KTTT, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của CNXH và các yếu tố bảo đảm tính định hướng XHCN”[85, tr.1218]. Mô hình kinh tế là sự kết hợp của nhiều yếu tố phổ quát (quy luật của KTTT), lại vừa yếu tố đặc thù Việt Nam (CNXH, tính định hướng XHCN). Hội nghị nhấn mạnh đến cơ chế vận hành của nền KTTT định hướng XHCN để đảm bảo đạt được mục tiêu đề ra.
Nhìn chung, nhận thức bước đầu của Đảng về nền KTTT định hướng XHCN đã có nhiều mặt sáng tỏ, nội dung định hướng XHCN lần đầu được đưa ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4- 2006) xác lập các nội hàm; cơ chế vận hành của nền kinh tế cũng được Đảng nhận thức ngày càng sáng rõ hơn. Sự phát triển nhận thức của Đảng về mô hình KTTT định hướng XHCN làm tiền đề cơ sở lý luận quan trọng để Đảng đề ra các quan điểm, chủ trương, giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.2. Mục tiêu, vai trò, chức năng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.2.2.1. Mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001) của Đảng đã khẳng định mục tiêu của xây dựng mô hình KTTT định hướng XHCN: “Kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân” [31, tr.636-637], phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”[31, tr. 636].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006) của Đảng đã có bước phát triển mới trong khi khẳng định mục tiêu của phát triển nền KTTT định hướng XHCN là: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn”[36, tr.183-184]. Ở đây, Đảng đã nhấn