Các Công Trình Nghiên Cứu Về Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Việt Nam


kinh tế, ngành và các yếu tố đầu vào. Trên cơ sở đó, các tác giả đã dự báo các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng và động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam, cũng như đề xuất các quan điểm, định hướng và giải pháp thiết thực điều chỉnh các động lực kinh tế trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.

Cuốn sách 35 năm thành tựu kinh tế Việt Nam và doanh nghiệp, doanh nhân trong thời kỳ đổi mới [88] của Nhà xuất bản Văn hóa thông tin đã giới thiệu những bài viết phân tích đánh giá của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung ương, các nhà kinh tế, các nhà kinh tế, giáo sư, tiến sĩ, nhà báo... đã từng và đang tham gia công cuộc đổi mới đất nước, nhằm đánh giá những mục tiêu đã đạt được; đồng thời cũng đưa ra các biện pháp kinh tế trong tương lai, để đất nước chúng ta ngày càng phát triển.

Cuốn sách Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 2001-2010 [139] và Động thái và thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam 5 năm 2011-2015 [142] của Tổng cục Thống kê xuất bản đã trình bày những thành tựu của Việt Nam phát triển kinh tế - xã hội trong 10 năm 2001-2010 và 5 năm 2011-2015: Kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ tăng tương đối khá; Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng; Đời sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện; sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác có những tiến bộ đáng kể. Bên cạnh đó, các tác giả cũng phân tích các số liệu để chỉ ra những hạn chế của trong phát triển kinh tế - xã hội : Cơ cấu kinh tế chậm đổi mới; duy trì mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào yếu tố vốn trong thời gian dài, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp và sức ép lạm phát ngày càng lớn; đời sống một bộ phận dân cư còn khó khăn; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được khắc phục.

Báo cáo “Việt Nam 2035 – hướng tới công bằng, thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ” [82] do Ngân hàng Thế giới phối hợp với Bộ Kế hoạch và đầu tư nghiên cứu đã đánh giá những thành tựu kinh tế - xã hội của Việt Nam qua 30 đổi mới. Đồng thời, báo cáo đề xuất một số biện pháp tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế và khu vực tài chính, trong đó tập trung vào nâng cao hiệu quả quản lí, bảo vệ quyền sử hữu tài sản, và thực thi chính sách cạnh tranh; tăng cường đảm bảo tiến bộ và an sinh xã hội, tạo nhiều cơ hội hơn cho các nhóm yếu thế trong xã hội. Báo cáo đưa ra các đề xuất cải thiện quản trị nhằm nâng cao trách nhiệm giải trình


và minh bạch, để đảm bảo Việt Nam có hệ thống thể chế mạnh nhằm bắt kịp sự phát triển của đất nước. Bên cạnh đó cần tăng cường trách nhiệm giải trình của nhà nước dựa trên chức năng kiểm soát giữa ba nhánh quyền lực và tạo cơ hội cho người dân góp ý về việc cung cấp dịch vụ công của chính phủ.

Cuốn sách “Việt Nam sau 30 năm đổi mới – thành tựu và triển vọng” [135] do trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn ( Đại học Quốc gia Hà Nội) phối hợp với Viện Konrad Adenauer (CHLB Đức) xuất bản nội bộ. Hướng nghiên cứu của các tác giả tập trung đánh giá những thành tựu của Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, hội nhập kinh tế, văn hóa, xã hội sau 30 năm đổi mới (1986 – 2016). Đồng thời, cuốn sách cũng chỉ ra những bài học kinh nghiệm, những triển vọng và những thách thức mà Việt Nam gặp phải, cần giải quyết như thế nào để thúc đẩy quá trình đổi mới phát triển hơn, đạt được những thành tựu toàn diện hơn.

Báo cáo Tăng trưởng vì mọi người – Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm 2015 về tăng trưởng bao trùm [155] do UNDP và Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam phối hợp thực hiện. Báo cáo đánh giá về kết quả đạt được trong phát triển con người và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam từ 1986 đến nay. Trong đó, ở thời kỳ đầu phát triển kinh tế ở Việt Nam mang tính bao trùm với những lợi ích và cơ hội được chia sẻ rộng rãi. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của Việt Nam có xu hướng chững lại, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Tăng trưởng giảm sút và khoảng cách giữa các vùng miền, các tỉnh và các nhóm dân cư vẫn chưa được thu hẹp. Báo cáo tập trung khuyến nghị các chính sách thiết thực để mở rộng việc làm có năng suất, cải thiện hiệu quả và nâng cao tính công bằng của hệ thống giáo dục và y tế cũng như gia tăng diện bao phủ của hệ thống an sinh xã hội

Công trình Báo cáo quốc gia: Kết quả 15 năm thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam [21] của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nêu bật những thành tựu của Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển: xóa bỏ tình trạng nghèo đói; phổ cập giáo dục tiểu học; bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; giảm tử vong trẻ em; tăng cường sức khỏe bà mẹ; phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh dịch nguy hiểm; đảm bảo bền vững môi trường; thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển. Từ những thành

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.


tựu này, Báo cáo đưa ra một số bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện các

Đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2016 - 3

chương trình mục tiêu của Liên hiệp quốc.

Công trình nghiên cứu Báo cáo đối thoại chính sách 2016: Các cảnh báo tiềm năng cho Việt Nam khi gia nhập TPP [136] của trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã đánh giá một số tác động của Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Đó là thay đổi của thể chế: các cam kết mở cửa thị trường ngày một cao, tình trạng bảo hộ DN trong nước sẽ thu hẹp, điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế cũng phải thay đổi,…sức ép cải cách từ hệ thống luật lệ của quốc tế lên Việt Nam không hề nhỏ.

Các công trình: Kết quả khảo sát mức sống dân cư 10 năm (2002 - 2012)[138]; Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2014 [143]; Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2016 [149] của Tổng cục Thống kê đã phân tích một cách tổng quan về mức sống của người Việt Nam thể hiện qua các nội dung: giáo dục; y tế và chăm sóc sức khoẻ; việc làm và thu nhập; chi tiêu; nhà ở, điện, nước, phương tiện vệ sinh và đồ dùng lâu bền; giảm nghèo.

Cuốn sách Cách mạng công nghiệp 4.0 – Vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế

- xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam [52] của tác giả Trần Thị Vân Hoa đã đi sâu nghiên cứu về tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0 và biến đổi khí hậu đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.

Cuốn sách “Cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong hội nhập FTA” [153] của tác giả Phạm Thị Hồng Yến (cb) đã phân tích, đánh giá thực trạng môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam; chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia, từ đó đề xuất định hướng giải pháp đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia một cách bền vững, hướng tới các mục tiêu phát triển đến năm 2030.

Nghiên cứu về thống kê kinh tế Việt Nam những năm gần đây có Luận án tiến sĩ "Nghiên cứu thống kê cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2012" [59] của Trần Thị Thanh Hương. Luận án đã phân tích được quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam theo cả ba phân tổ (nhóm ngành kinh tế, thành phần kinh tế và vùng lãnh thổ), theo cả chỉ tiêu đầu vào (lao động, vốn đầu tư) lẫn chỉ tiêu đầu


ra (GDP). Luận án đã dự báo được cơ cấu của Việt Nam: đến năm 2020, tỷ trọng giá trị tăng thêm của 2 nhóm ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ đạt 83,17%. Như vậy, để đạt được mục tiêu chiến lược của Đảng và Nhà nước đến năm 2020, tỉ trọng các ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Các nhóm ngành kinh tế cần tiếp tục phát huy thế mạnh của mình để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.

1.1.3. Các công trình nghiên cứu về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là chủ đề nhận được sự quan tâm tìm hiểu của nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài.

Cuốn sách: “Từ kế hoạch đến thị trường - Sự chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam”

[114] của tác giả Adam Fforde và Stefande de Vylder đã nghiên cứu và phân tích về phương diện lịch sử quá trình chuyển đổi ở Việt Nam, quá trình hoàn chỉnh của công cuộc cải cách từ các thành phần kinh tế khác nhau đến công bằng xã hội và mô hình tăng trưởng mới. Sự chuyển đổi này đã giải thích cho nền kinh tế dần hướng ngoại, đạt tăng trưởng cao vào đầu những năm 1990, mặc dù mất viện trợ của Liên Xô.

Cuốn sách “Quản lý quá trình chuyển sang chế độ thương mại tự do: Chính sách thương mại của Việt Nam cho thế kỷ XXI” [63] của tác giả Ari Kokko đã tập trung bàn về sự phát triển kinh tế vĩ mô, chính sách thương mại của Việt Nam. Phân tích những lợi thế và những bài học kinh nghiệm cho cuộc cải cách thương mại của Việt Nam trong những năm tới. Trong đó, tác giả cho rằng kinh tế Việt Nam cần gắn kết với thị trường quốc tế.

Bài viết “Sự quốc tế hóa của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” [64] của tác giả Ari Kokko và Fredrik Sjöholm đã cung cấp những thông tin cơ bản vắn tắt về những cải cách kinh tế của Việt Nam, với sự nhấn mạnh đặc biệt đến vấn đề quốc tế hóa và DNVVN. Phần lớn các DNVVN không có liên hệ trực tiếp với nền kinh tế thế giới. Do đó, các chính sách về DNVVN nên tập trung vào khả năng cạnh tranh và khuyến khích xuất khẩu, như hỗ trợ tiếp thị, dịch vụ thông tin, phát triển kỹ năng và cũng có thể là tín dụng thương mại, có thể mang lại những lợi ích to lớn.

Bên cạnh đó, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam cũng công bố nhiều công trình nghiên cứu đối với vấn đề này.


Cuốn sách “Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989” [94] của Đặng Phong đã đi từ tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam những năm 1975-1989 để phân tích sự thay đổi trong tư duy phát triển kinh tế của Đảng, theo hướng ngày càng chấp nhận thị trường, dần hạn chế mô hình kinh tế tập trung, bao cấp.

Cuốn sách “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” [1]của tác giả Đinh Văn Ân (chủ biên) đã đánh giá khái quát quá trình xây dựng thể chế KTTT ở Việt Nam trong thời gian qua, làm rõ những thành tựu và tiến bộ đạt được, đồng thời nhận dạng những hạn chế, tồn tại; tập trung xác định các vấn đề đang được coi là cốt lõi và nổi cộm liên quan đến thực tiễn xây dựng và vận hành hệ thống thể chế kinh tế hiện nay ở Việt Nam, đề xuất một số giải pháp nhằm cụ thể hóa các chủ trương, chính sách về hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN; làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận liên quan đến nhận thức và quan điểm hoàn thiện thể chế kinh tế của nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, cũng như những thách thức mới đối với việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng hiện nay.

Cuốn sách “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới” [47] của tác giả Nguyễn Văn Hậu và Nguyễn Thị Như Hà đã trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về thể chế KTTT định hướng XHCN như các lý thuyết về thể chế, thể chế kinh tế, thể chế kinh tế thị trường, đặc trưng của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, tác động của việc gia nhập WTO đến hoàn thiện thể chế KTTT ở Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc xây dựng và phát triển thể chế KTTT XHCN sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Công trình nghiên cứu cũng đề cập đến thực trạng hình thành và phát triển thể chế KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, trong đó nêu rõ quá trình xây dựng và phát triển thể chế về sở hữu và các chủ thể sản xuất kinh doanh, thực trạng đổi mới thể chế về tổ chức và hoạt động của các cơ quann quản lý nhà nước, thực trạng thể chế về phân phối thu nhập quốc dân, quá trình hình thành và phát triển thể chế về các loại thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Từ những phân tích trên,


các tác giả đã đề ra những quan điểm và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT

định hướng XHCN khi Việt Nam là thành viên của WTO.

Cuốn sách “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do tác giả Vũ Đình Bách (chủ biên) [6] đã làm rõ về vấn đề nhận thức về KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, thể chế và quản lý nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN, thị trường và động lực phát triển trong nền KTTT định hướng XHCN. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, tác giả đã đưa ra nhiều giải pháp thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế Việt Nam, những giải pháp giúp thu hút đầu tư nước ngoài hiệu quả. Cuối cùng, tác giả đã đưa ra các điều kiện đảm bảo cho sự vận hành và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam: Đổi mới tư duy lý luận của Đảng Công sản Việt Nam, hoàn thiện vai trò quản lý của nhà nước, xây dựng hệ thống hạ tầng hiện đại, tập trung ưu tiên đổi mới hệ thống giáo dục – đào tạo, tăng cường năng lực khoa học và công nghệ, xây dựng, hỗ trợ các doanh nghiệp, doanh nhân.

Cuốn sách “Những vấn đề kinh tế - xã hội trong cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011)” [70] của các tác giả Trương Gia Long và Trần Hoàng Ngân (đồng chủ biên) đã tập hợp nhiều bài viết của các tác giả, trong đó tập trung vào các vấn đề chính như: trình bày tổng quan về mô hình KTTT định hướng XHCN trong Cương lĩnh; vấn đề sở hữu và thành phần kinh tế, phát triển các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam; các vấn đề kinh tế cụ thể: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển khu vực dịch vụ, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với kinh tế tri thức, nâng cao chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam,..; các vấn đề về giáo dục đào tạo: Phát triển giáo dục – đào tạo, xây dựng và phát triển nhân tài, đẩy nhanh tiến trình xây dựng “xã hội học tập”.

Bộ sách “Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra” gồm 2 tập do tập thể tác giả: Nguyễn Xuân Thắng, Nguyễn Viết Thông, Đinh Quang Ty và Lê Minh nghĩa ( đồng chủ biên) đã đề cập đến việc xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam dưới nhiều góc độ khác nhau. Tập 1 [119] của bộ sách chủ yếu tập trung vào các vấn đề: Những quan niệm mới về định hướng XHCN trong phát triển KTTT ở Việt Nam, trong đó nêu những quan điểm mới có tác dụng thúc đẩy nền KTTT định


hướng XHCN phát triển nhanh và bền vững hơn; phân tích những kinh nghiệm quốc tế đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa các vấn đề kinh tế và các vấn đề xã hội, việc sử dụng KTTT để tạo lập các điều kiện, tiền đề cần thiết cho xã hội tương lai; đưa ra những nội dung có giá trị tham khảo cho Việt Nam về cơ chế, chính sách mới trong phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Tập 2 [120] tập trung vào phân tích, đánh giá: thực trạng phát triển KTTT và thực hiện định hướng XHCN trong suốt thời kỳ đổi mới ở Việt Nam trên các góc độ lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, thực lực của nền kinh tế, hệ thống doanh nghiệp; vai trò thực tế của KTTT trong việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; kết quả hội nhập kinh tế quốc tế; kết quả giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với các phát triển văn hóa, xã hội,…Điều đáng chú ý là cuốn sách đã bước đầu đề xuất những quan điểm và các cơ chế chính sách mới đảm bảo cho nền KTTT định hướng XHCN chuyển sang phát triển theo chiều sâu, với chất lượng tổng thể cao hơn trong những năm tiếp theo.

Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận – thực tiễn về định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới” [123] của các tác giả Nguyễn Viết Thông, Đinh Quang Ty và Lê Minh Nghĩa (đồng chủ biên) đã trình bày được những luận cứ khoa học về định hướng XHCN trong phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam; thực trạng thực hiện định hướng XHCN trong phát triển nền KTTT ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới; đồng thời đưa ra quan điểm, mục tiêu, giải pháp nhằm thực hiện có kết quả định hướng XHCN trong phát triển KTTT ở Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Cuốn sách “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta lý luận và thực tiễn” [101] của tác giả Vũ Văn Phúc đã trình bày những nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN; những đặc trưng mang tính quy luật, bản chất của KTTT; thực tiễn phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta, đánh giá những mặt hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém đó; đưa ra những kiến nghị xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta trong thời gian tới, đưa ra những định hướng lớn, chủ trương, chính sách cụ thể để phát triển bền vững nền KTTT định hướng XHCN.


Công trình “Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” [9] của Ban Kinh tế trung ương đề cập đến nhận thức của Đảng về KTTT định hướng XHCN từ năm 1986 đến năm 2011; những thành tựu cũng như hạn chế và vấn đề đặt ra trong phát triển KTTT định hướng XHCN; qua đó đề xuất kiến nghị về quan điểm, phương hướng, giải pháp để phát triển nền KTTT định hướng XHCN trong thời gian tới.

Cuốn sách Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta [131] của Nguyễn Phú Trọng đã đề cập đến cả về lý luận và thực tiễn về các mối quan hệ lớn, trong đó có giữa KTTT với định hướng XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội…

Cuốn sách Các rào cản về thể chế kinh tế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam [92] của tác giả Lê Du Phong đã đề cập đến thực trạng xây dựng hệ thống luật pháp của Việt Nam hiện nay. Hệ thống pháp luật đó đã cơ bản phù hợp với các quy luật của KTTT và hội nhập kinh tế quốc tế; từng bước hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; từng bước hình thành đồng bộ các loại thị trường; xác định ngày càng rõ hơn vai trò của các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế. Tuy nhiên, thể chế kinh tế của Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều bất cập: Sự không tương thích giữa chính sách phát triển theo hướng thị trường với các quy định của pháp luật đã tạo nên không khớp trong thực tiễn thực hiện. Vai trò, chức năng của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN chưa rõ ràng,…mà nguyên nhân do thể chế kinh tế ở Việt Nam còn nhiều rào cản. Do đó, tác giả đã chỉ ra các rào khiến thể chế KTTT định hướng XHCN khó thực hiện ở Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả đã đưa ra nhiều mô hình kinh nghiệm trên thế giới giải quyết vấn đề rào cản đối với phát triển thể chế kinh tế, từ đó tác giả đã mạnh dạn đưa ra một số quan điểm, giải pháp nhằm dỡ bỏ hoàn toàn các rào cản về thể chế kinh tế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam đến năm 2030.

Cuốn sách “Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” [134] của tác giả Trần Xuân Trường đã nêu lên những vấn đề cơ bản, cấp bách cả về lý luận và thực tiễn của định hướng XHCN nói chung và định hướng XHCN trên các

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/03/2023