Khái Quát Về Định Giá Thương Hiệu Ngân Hàng Thương Mại


chuyển tiền, thanh toán các hoá đơn dịch vụ, phát hành thẻ nội địa hoặc thẻ quốc tế... Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được chuyển vào tài khoản tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng và thanh toán trong phạm vi số dư mà khách hàng có. Một số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi- chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức “biến tướng” của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. Lãi suất mà ngân hàng trả cho sản phẩm này rất thấp (hoặc bằng không), hay mục đích của khách hàng khi sử dụng sản phẩm này của ngân hàng là hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng nên điều mà họ quan tâm khi lựa chọn ngân hàng phục vụ sản phẩm này không phải là giá tốt (lãi suất không kỳ hạn được trả cao hay thấp) mà là danh mục các dịch vụ thanh toán được cung cấp, mức phí phải trả khi sử dụng sản phẩm, thời gian giao dịch, mạng lưới giao dịch…

Lãi suất huy động vốn thấp. Nhưng tính ổn định của nguồn vốn này rất kém, do khách hàng có thể rút ra để chi trả, thanh toán bất cứ lúc nào, mà ngân hàng không được phép từ chối. Biến động của tiền gửi thanh toán phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng tiền hay rút vốn của khách hàng, do đó, khả năng ngân hàng sử dụng nguồn tiền gửi thanh toán để cho vay là không cao. Phần lớn tiền gửi thanh toán được sử dụng để thiết lập dự trữ, và cho vay ngắn hạn.

+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư

Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (là các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu an toàn, chắc chắn không có nơi cất trữ tiền nào an toàn bằng két sắt của ngân hàng. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen gcxiữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa


ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các kì hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng...). Ngân hàng có thể mở cho mỗi người gửi tiết kiệm nhiều thẻ tiết kiệm ( hoặc là sổ tiết kiệm) cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.

Tiền gửi tiết kiệm đã được coi là hình thức huy động vốn chủ yếu của các Ngân hàng thương mại. Vốn huy động từ các khoản tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại sau: loại không kỳ hạn, loại có kỳ hạn ngắn hạn và loại kỳ hạn dài hạn.

Về nguyên tắc, một khi khách hàng đã gửi tiền vào tài khoản này họ sẽ không được rút ra (cả gốc và lãi) trừ khi đã đáo hạn. để tăng sức cạnh tranh trong thu hút tiền gửi, một số ngân hàng thương mại vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước hạn. Những yếu tố ảnh hưởng đến huy động nguồn vốn này phù thuộc vào nhu cầu tiết kiệm từ dân cư, lượng tiền gửi phụ thuộc vào thu nhập của dân cư, vào xu hướng tiết kiệm, các đặc tính về dân số - xã hội, tình hình kinh tế xã hội, chu kỳ kinh tế. Ngoài yếu tố lãi suất, thì mạng lưới chi nhánh, thái độ nhân viên giao dịch và đặc biệt là uy tín của ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của khách hàng trong việc lựa chọn ngân hàng gửi tiền

+ Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn cho doanh nghiệp và tổ chức. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kì hạn.


Định giá thương hiệu ngân hàng thương mại Việt Nam - 5

+ Tiền gửi của các ngân hàng khác

Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, ngân hàng thương mại này có thề gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, qui mô nguồn này thường không lớn.

Tóm lại trong danh mục sản phẩm của ngân hàng thì sản phẩm tiền gửi có vai trò rất quan trọng, là cơ sở cho các hoạt động của ngân hàng. đối với sản phẩm này, ngoài yếu tố lãi suất thì sự tin tưởng là yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến quyết định của khách hàng.

- Sản phẩm tín dụng

Hình thành từ việc ngân hàng thương mại thoả thuận để khách hàng có nhu cầu về vốn được sử dụng một khoản tiền vào một mục đích nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định theo nguyên tắc hoàn trả và đúng hạn bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác…

Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là khoản mục tài sản lớn nhất của ngân hàng

Chiết khấu là việc ngân hàng mua lại các giấy tờ có giá chưa đến hạn của khách hàng, giấy tờ có giá thường là các giấy nợ như sổ tiết kiệm, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu

Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian thuê (đối với cho thuê tài chính) khách hàng có quyền mua lại với giá danh nghĩa.

Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoăc thực hiện không đúng các nghĩa vụ tài chính đã cam kết của mình. Bản chất của sản phẩm này là ngân hàng dùng uy tín của mình để thu lợi.


- Sản phẩm thanh toán

Là việc ngân hàng cung ứng phương tiện như Séc, lệnh chi, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, uỷ nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác thông qua tài khoản của khách hàng. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt như an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn. điều này khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Khi các khách hàng đều giao dịch qua ngân hàng thì việc cung ứng sản phẩm này giúp ngân hàng có nguồn vốn khá ổn định và rẻ, đồng thời ngân hàng cũng có nguồn thu đáng kể về phí thanh toán.

- Sản phẩm quản lý và tư vấn tài chính

Nhân viên của ngân hàng rất am hiểu về tài chính nên nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhờ ngân hàng quản lý tài sản, quản lý hoạt động tài chính, hoặc tư vấn đầu tư, tư vấn thành lập, mua bán, sáp nhập, tư vấn.

Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Do có kinh nghiệm trong quản lí tài chính, đặc biệt là quản lý ngân quỹ, ngân hàng quản lý việc thu và chi cho khách hàng (thường là khách hàng tổ chức) và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.

Ngoài ra, nhân viên ngân hàng đều là những người có trình độ về tài chính nên việc đưa ra những lời khuyên hay tư vấn trong lĩnh vực này là điều không


khó khăn, vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư ... Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn hàng đầu về đầu tư, quản lí tài chính, thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.

- Sản phẩm tài chính khác

Ngân hàng còn cung ứng rất nhiều sản phẩm tài chính khác như môi giới chứng khoán, bảo hiểm, các dịch vụ đại lý….

Ngân hàng là định chế có nguồn vốn lớn, công nghệ hiện đại và nhân viên am hiểu chuyên môn nghiệp vụ nên việc cung cấp đủ các dịch vụ cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu tài chính là điều không quá khó, đây là một trong những lý do chính để các ngân hàng cung ứng các dịch vụ như môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác.

Ngoài ra, ngân hàng bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng có thể liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc thành lập công ty bảo hiểm con, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí...

Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đàu mối trong đồng tài trợ...

2.1.2 Chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại

- Trung gian tài chính

Trong mọi nền kinh tế luôn tồn tại 2 nhóm đối tượng: (1) những đối tượng tạm thời thâm hụt vốn (do chi tiêu vượt quá thu nhập), cần bổ xung vốn; và (2)


những đối tượng thặng dư vốn (thu nhập hiện tại lớn hơn các khoản chi tiêu), có thể tiết kiệm. Tiền tất yếu sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Quan hệ tài chính được xác lập khi dòng tiền di chuyển từ nhóm (2) sang nhóm (1) với điều kiện chắn chắn quay trở lại với một lượng lớn trong một khoảng thời gian nhất định thì quan hệ tín dụng giữa (1) và (2) được xác lập, nếu không sẽ là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Quan hệ tín dụng trực tiếp (hay quan hệ tài chính trực tiếp) giữa (1) và (2) đã có từ rất lâu và tồn tại đến ngày nay. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn và cản trở do sự không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian... nên trung gian tài chính trong đó có ngân hàng thương mại được hình thành. Nhờ chuyên môn hoá và các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế và phân tán rủi ro, ngân hàng thương mại giải quyết được mâu thuẫn và giới hạn của tín dụng trực tiếp, làm giảm chi phí giao dịch nên có thể trả cho người tiết kiệm lãi suất hơn, đòi người vay lãi suất thấp hơn khi quan hệ tín dụng trực tiếp.

- Tạo phương tiện thanh toán

Khi ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán qua tài khoản, khách hàng của ngân hàng có thể chi trả cho hàng hoá và dịch vụ tối đa trên số dư của tài khoản tiền gửi thanh toán. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để chi tiêu và tiêu dùng thêm. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.

- Trung gian thanh toán

Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ bằng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, thẻ ngân hàng…, các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán nên chức năng này của ngân hàng còn giúp giảm lượng tiền giấy trong lưu thông, hạn chế được các tệ nạn tham nhũng, trộm cướp, tiền giả…


2.1.3 Vai trò của ngân hàng thương mại

- Thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá

Nhờ có hệ thống ngân hàng thương mại mà tiền tiết kiệm của cá nhân, tổ chức được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Nó giống như chất dầu bôi trơn cho bộ máy kinh tế hoạt động thông qua việc di chuyển nguồn lực của xã hội từ nơi chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao mức sống xã hội. Với vai trò là trung gian thanh toán ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế từ đó thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hoá, luân chuyển vốn trong xã hội, tiết kiệm chi phí thanh toán cho từng cá nhân, doanh nghiệp nâng cao hiệu quả toàn bộ cho nền kinh tế. Hơn nữa ngân hàng cũng giám sát được các hoạt động kinh tế góp phần tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh tạo ra sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội

- Là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương

Ngân hàng thương mại là một trong những chủ thể tham gia vào quá trình cung ứng tiền tệ, với chức năng tạo tiền ngân hàng thương mại tạo ra được một khối lượng phương tiện thanh toán rất lớn trong nền kinh tế. để thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung Ương phải sử dụng các công cụ điều tiết lượng tiền trong lưu thông, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế vĩ mô đặc biệt là ổn định tiền tệ. Phần lớn các công cụ của chính sách tiền tệ chỉ được thực thi có hiệu quả với sự hợp tác tích cực và có hiệu quả của các ngân hàng thương mại như việc chấp hành quy định về dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt và nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư. Thông qua hệ thống ngân hàng thương mại Ngân Hàng Trung Ương phát hành thêm tiền vào lưu thông, thực hiện các chính sách tín dụng, chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất của Nhà nước để điều tiết các hoạt động của nền kinh tế.


2.2 Khái quát về định giá thương hiệu ngân hàng thương mại

2.2.1 Cơ sở lý thuyết và khái niệm định giá thương hiệu ngân hàng

2.2.1.1 Khái niệm thương hiệu ngân hàng thương mại

-Khái niệm

Khi thương hiệu được quan niệm là nhận thức, tình cảm và niềm tin khách hàng về tất cả các yếu tố của doanh nghiệp thì thương hiệu không chỉ đơn thuần là cái tên, kiểu dáng, mẫu mã, logo, khẩu hiệu… mà thương hiệu gắn liền với doanh nghiệp và tất cả các yếu tố cấu thành doanh nghiệp được dấu ấn trong tâm trí khách hàng. Nhiều thương hiệu có những giá trị mang tầm quốc gia, thậm chí trong cả phạm vi quốc tế.

Gắn với một ngành nghề cụ thể là ngân hàng thương mại thì thương hiệu ngân hàng chính là tài sản giá trị của ngân hàng; là tên, nhãn hiệu, logo, khẩu hiệu, uy tín, danh tiếng, trình độ, thái độ của đội ngũ nhân viên, là năng lực cạnh tranh và tính khác biệt, là tính nổi trội về chất lượng sản phẩm trên thị trường… nói cách khác, thương hiệu là tổng thể các yếu tố tác động vào nhận thức, tình cảm và niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng

Nhìn từ góc độ vĩ mô, ngân hàng thương mại thuộc nhóm ngành dịch vụ ở cấp độ cao, sản phẩm ngân hàng là các dịch vụ tài chính nên có độ khó hiểu và phức tạp hơn rất nhiều so với các dịch vụ công nghiệp và các dịch vụ khác. điều này xuất phát từ việc sản phẩm ngân hàng liên quan đến một hỗn hợp các yếu tố không chỉ gồm tiền, giá cả, sự thực hiện mà lời hứa và quan trọng hơn là nhân tố con người lại đóng vai trò then chốt trong tất cả các yếu tố tạo nên chất lượng sản phẩm. Khi sản phẩm hay dịch vụ ngân hàng là một tập hợp các tiện ích được thể hiện qua lãi suất, phí, chênh lệch giá, hạn mức, sự thuận tiện, kịp thời, sự cảm nhận... đối với khách hàng thì thương hiệu là nhân tố then chốt cho mọi hoạt động ngân hàng, là yếu tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng


Thương hiệu trong hoạt động của ngân hàng thương mại hết sức cần thiết, là một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh doanh của bất cứ ngân hàng nào. Không có thương hiệu, ngân hàng sẽ không có niềm tin của khách hàng, khách hàng sẽ không bao giờ gửi tiền, vay tiền hoặc thực hiện giao dịch tài chính với ngân hàng, mọi hoạt động của ngân hàng sẽ chấm dứt. Thương hiệu là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố kể cả trong tác nghiệp lẫn điều hành mà hiệu quả cuối cùng là làm cho khách hàng hài lòng khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng.

Khái niệm về thương hiệu của Susan trong chương 1 mặc dù có nhiều ý nghĩa nhưng với mục tiêu đo lường giá trị thương hiệu như một tài sản có giá trị của ngân hàng để từ đó có những chiến lược và biện pháp quản lý phù hợp thì phải xây dựng khái niệm “thương hiệu ngân hàng” có tính cụ thể hơn. Sản phẩm của ngân hàng là cao cấp nên việc định giá thương hiệu cũng xuất phát từ chỗ thỏa mãn nhu cầu tài chính của khách hàng do thương hiệu mang lại nên “Thương hiệu ngân hàng là tổng hợp các yếu tố nhằm thỏa mãn nhu cầu tài chính của khách hàng, giúp khách hàng có nhận thức, niềm tin và tình cảm với ngân hàng”


Lòng trung thành

Hành vi

Khách


hàng

Tình cảm

Giao tiếp ứng xử, quy trình nghiệp vụ, sản phẩm, mạng lưới chi nhánh, PGD, Logo, khẩu hiệu, đồng phục, Kiến trúc nội ngoại thất…

Ngân hàng

Hình thức sở hữu, mô hình tổ chức, chiến lược, mục tiêu hoạt

động…

Nhận thức


Sơ đồ 2.2: Thương hiệu ngân hàng thương mại


-Vai trò của thương hiệu ngân hàng

- Giúp ngân hàng có lực lượng khách hàng lớn và trung thành: Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh dựa vào niềm tin. Phải có niềm tin, người có tiền mới sẵn lòng đem nó trao cho người khác, khi ngân hàng có thương hiệu, ngân hàng có được tình cảm và niềm tin của khách hàng, việc này sẽ giúp ngân hàng có thêm nhiều khách hàng. đặc biệt khi sản phẩm ngân hàng thuộc nhóm dịch vụ, với đặc trưng của tính vô hình nên khi có sự tin tưởng - có thể từ tiềm lực tài chính mạnh, phong cách giao tiếp ân cần chu đáo, từ mạng lưới rộng khắp, từ sản phẩm đa dạng, hay công nghệ hiện đại… - khách hàng sẽ yên tâm thực hiện các giao dịch với ngân hàng, nhiều người gửi tiền, vay tiền, hoặc nhờ tư vấn tài chính. Thương hiệu ngân hàng còn giúp ngân hàng có lực lượng khách hàng trung thành – truyền thống. Về xu hướng, khách hàng có luôn có ý thức trung thành với những nhà cung cấp đang phục vụ mình, việc thay đổi chỉ diễn ra khi có mâu thuẫn lớn, khó giải quyết giữa ngân hàng và khách hàng. Nên khi ngân hàng có thương hiệu

- Giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro: Kinh doanh ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều khả năng xảy ra tổn thất đến từ nhiều lĩnh vực nhất so với bất kỳ một ngành nghề kinh doanh nào. Nhiều rủi ro có thể kê tên như rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro đạo đức… nhưng khi có một vị thế trong tâm trí khách hàng thì sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu đi rất nhiều khả năng xảy ra những tổn thất có thế đối mặt, đặc biệt là những rủi ro thuộc về phạm vi đạo đức hoặc những rủi ro có tính nhạy cảm cao như thanh khoản. Lịch sử đã cho thấy nếu không có thương hiệu mạnh, thì khi có tin đồn - dù vô căn cứ, cũng có thế khiến người gửi tiền đến rút ồ ạt gây sụp đổ ngân hàng. Khi có niềm tin của khách, ngân hàng sẽ luôn đứng vững trước mọi biến động nghiệt ngã từ môi trường kinh doanh, giúp ngân hàng bền vững, đảm bảo sự ổn định trong mọi hoạt động và phát triển


- Giúp giảm ngân hàng chi phí: Khi không có thương hiệu, ngân hàng sẽ phải tốn kém rất nhiều chi phí để có được nguồn vốn huy động từ người gửi tiền, để tiếp cận được với nhu cầu vay vốn an toàn hiệu quả và khả thi, để có được vị thế trong các giao dịch liên ngân hàng. Thực tế không chỉ đối với các ngân hàng thương mại Việt nam cho thấy, những ngân hàng lớn có uy tín, kết cấu nguồn vốn chủ yếu là từ tiền gửi – đây là nguồn quan trọng, cơ bản và ổn định cho mọi hoạt động sử dụng vốn, còn những ngân hàng không có thương hiệu (như các ngân hàng thương mại cổ phẩn nhỏ) khả năng huy động từ thị trường 1 bao gồm dân cư và doanh nghiệp là khó khăn nên nguồn vốn chủ yếu là vay mượn liên ngân hàng, từ đó dẫn đến một những hệ lụy đi kèm như thanh khoản kém, “đi đêm” lãi suất…; thêm nữa khả năng tiếp cận với những khách hàng vay vốn đạt chuẩn của những ngân hàng không có thương hiệu hay thương hiệu bé cũng rất hạn chế nên để tồn tại họ buộc phải phá dỡ những quy định an toàn ngặt nghèo của tín dụng để có được thu lãi… tất cả những việc này sẽ ảnh hưởng đến sự minh bạch và ổn định của không chỉ ngân hàng mà cả nền kinh tế, cả xã hội. Một ngân hàng có uy tín cao, các chi phí dành cho truyền thông, quảng cáo, chi phí “bôi trơn”… sẽ được hạn chế, thay vào đó sẽ để cho các hoạt động đầu tư bài bản vào công nghệ ngân hàng hiện đại, vào phát triển nghiệp vụ, đào tạo mọi kỹ năng cho nhân viên… từ đó chất lượng phục vụ khách hàng được nâng cao, từ đó lại làm tăng niềm tin và tình cảm của khách hàng.

- Giúp ngân hàng thu hút được người lao động có tâm, có tài: Thương hiệu mạnh là thương hiệu luôn biết giữ lời hứa, giữ chữ tín nên người lao động đặc biệt là lao động cao cấp như các nhân viên ngân hàng luôn muốn được làm việc tại ngân hàng có thương hiệu mạnh vì thương hiệu ngân hàng mạnh đồng nghĩa với thị trường rộng và ổn định, thu nhập tốt, các chế độ đãi ngộ cao, sự bảo đảm lớn. đồng thời, khi ngân hàng có đội ngũ nhân viên hùng hậu cả về tâm tài trí thì khả năng phục vụ khách hàng càng được hiệu quả từ đó thương hiệu của ngân hàng càng được củng cố và phát triển.


2.2.1.2 Cơ sở lý thuyết về định giá thương hiệu ngân hàng thương mại

Thương hiệu trong ngân hàng định giá theo phương pháp nào? Theo dõi diễn biến giá trị thương hiệu với kết quả hoạt động kinh doanh theo thời gian của ngân hàng có liên quan gì, mối tương quan cùng chiều hay trái chiều?

Ngân hàng thương mại bản chất là một loại hình doanh nghiệp, ngân hàng thương mại hội tụ đủ các yếu tố của một doanh nghiệp nên cơ sở lý thuyết cho việc định giá thương hiệu doanh nghiệp chính là cơ sở lý thuyết cho việc định giá thương hiệu ngân hàng thương mại.

Việc xác định giá thương hiệu ngân hàng thương mại cũng được tiếp cận một trong hai cách tiếp cận về định giá thương hiệu:

- Xác định giá trị thương hiệu ngân hàng thương mại dựa trên nghiên cứu thị trường (là đánh giá thương hiệu ngân hàng)

- Xác định giá trị thương hiệu ngân hàng thương mại dựa trên các số liệu tài chính (là định giá thương hiệu ngân hàng)

-Xác định giá trị thương hiệu ngân hàng thương mại theo cách tiếp cận thứ nhất:

Cách tiếp cận này đánh giá và xếp hạng thương hiệu ngân hàng thương mại dưa trên đo lường hành vi và thái độ của khách hàng đến hiệu quả kinh tế của thương hiệu ngân hàng thương mại dựa trên nghiên cứu về những phản ứng của thị trường (khách hàng và các đối tượng hữu quan của ngân hàng) đối với thương hiệu ngân hàng thương mại thông qua các bước như: (1) xây dựng mô hình lý thuyết, (2) Thu thập dữ liệu cho mô hình bằng cách tiến hành điều tra từ thị trường (3) phân tích dữ liệu thu thập được để đánh giá thương hiệu ngân hàng thương mại.

Phải có những điều kiện để áp dụng cách tiếp cận nghiên cứu này trong thực tiễn. Những điều kiện này ứng với mỗi mô hình, mỗi thị trường và mỗi thương hiệu ngân hàng thương mại cụ thể một khác, nhưng có thể khái quát thành một số điều kiện cơ bản như sau:

+ định nghĩa chuẩn về thương hiệu ngân hàng

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí