Những Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 Về Thủ Tục Điều Tra Vụ Án Hình Sự Do Người Dưới 18 Tuổi Thực Hiện

- Có hay không có người thành niên xúi giục.

- Nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội [27].

Theo quy định trên, những vấn đề này chỉ đặt ra thì tiến hành điều tra, truy tố, xét xử đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, không áp dụng đối với người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi. Người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự bao gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo [27]. Việc xác định đúng những đối tượng chứng minh này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giải quyết VAHS, cụ thể như sau:

Về xác định tuổi của người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích xác định có truy cứu hay không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó; quyết định hình phạt thích hợp và đảm bảo chế độ thi hành án đúng quy định của pháp luật đối với người dưới 18 tuổi. Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử những bị can, bị cáo thì CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án chỉ được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử khi có đầy đủ căn cứ kết luận rằng bị can bị cáo là người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó, dựa vào tuổi của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi để tính thời điểm áp dụng thủ tục tố tụng hình sự. Điều này có nghĩa tại thời điểm áp dụng các thủ tục tố tụng người bị buộc tội phải là người dưới 18 tuổi, nếu khi thực hiện hành vi phạm tội họ dưới 18 tuổi nhưng đến khi phát hiện, bị khởi tố điều tra, truy tố, xét xử mà đủ 18 tuổi thì không áp dụng thủ tục tố tụng đặc biệt mà sẽ áp dụng thủ tục tố tụng thông thường.

Về điều kiện sinh sống và giáo dục người dưới 18 tuổi có ảnh hưởng đến việc xác định một số đặc điểm liên quan tới hành vi phạm tội do họ gây ra và khả năng cải tạo, giáo dục, tái hòa nhập cộng đồng. Những điều kiện sinh sống và giáo dục cần được xác định gồm: điều kiện sống của gia đình; thái độ của cha mẹ đối với việc giáo dục con cái; môi trường sinh hoạt xung quanh; nội dung giáo dục của nhà trường; nơi làm việc; nơi cư trú có ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi hay không. Đây là những yếu tố ảnh

hưởng đầu tiên và quan trọng nhất trong việc đào tạo tư cách và tính cách của người dưới 18 tuổi, theo chiều hướng phát triển lành mạnh hay hình thành nhân cách lệch lạc từ những thói quen, yếu tố tiêu cực từ môi trường sống.

Về có hay không có người thành niên xúi giục, việc xác định người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng nếu chứng minh được phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng chế thì được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được BLHS quy định [25]. Ngược lại, nếu xác định được có người thành niên xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội thì đây là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự [25]. Do đó, trong những vụ án mà người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cần phải xác định có người lớn xúi giục hay không là một yếu tố quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi. Ngoài ra, giúp cơ quan/người tiến hành tố tụng sớm phát hiện đồng phạm trong vụ án, kịp thời xử lý người xúi giục để lọt kẻ phạm tội; không làm oan người vô tội.

Về nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội, tìm hiểu những vấn đề này nhằm xác định con đường dẫn đến phạm tội của người dưới 18 tuổi góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có hiệu quả; đồng thời đề ra biện pháp khắc phục và ngăn ngừa hợp lý. Môi trường gia đình, nhà trường, xã hội luôn gắn bó mật thiết với nhau và tác động trực tiếp đến người dưới 18 tuổi. Theo đó, môi trường gia đình, nhà trường và xã hội được xem là những nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội; đặc điểm tâm lý lứa tuổi người dưới 18 tuổi là điều kiện ảnh hưởng và tác động lẫn nhau một cách biện chứng làm phát sinh tội phạm ở người dưới 18 tuổi.

Tóm lại, khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, những người tiến hành tố tụng cần phải xác định rò các vấn đề trên để đánh giá về trình độ, khả năng nhận thức hành vi, diễn biến tâm lý, sự tác động của các yếu tố khách quan đối với hành vi phạm tội nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn xử lý

các vụ án có người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng đồng thời bảo đảm sự tương thích với các hướng dẫn của LHQ đề ra.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

2.2. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về thủ tục điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện

Trong Chương 1 của luận văn đã chỉ ra điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện có mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời với điều tra VAHS nên về nguyên tắc điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện vẫn phải đảm bảo các quy định chung về điều tra VAHS do BLTTHS quy định như: thẩm quyền điều tra; chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền; nhập tách vụ án để tiến hành điều tra, ủy thác điều tra; phục hồi điều tra, thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam để điều tra; thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại; giải quyết các yêu cầu của người tham gia tố tưng; sự tham gia của người chứng kiến; đảm bảo bí mật trong điều tra và biên bản điều tra. Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định cụ thể của BLTTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi nhằm chỉ ra những nét đặc trưng riêng biệt của điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện khác với điều tra VAHS do người đủ 18 tuổi thực hiện.

Điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - 5

2.2.1. Những nguyên tắc tiến hành tố tụng

Với đối tượng áp dụng đặc thù là người dưới 18 tuổi – những người dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ khi tham gia vào quá trình tố tụng. Nếu trong quá trình điều tra các VAHS, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện không đúng, có những hành động không đúng mực sẽ dễ ảnh hưởng dẫn đến tâm lý tiêu cực cho các em và khiến các em mất niềm tin vào các cơ quan thực thi pháp luật. Do đó, BLTTHS đã quy định những nguyên tắc tiến hành tố tụng riêng biệt đối với người dưới 18 tuổi. Các thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi không chỉ tuân theo nguyên tắc riêng được quy định tại Chương XXVIII của BLTTHS 2015 mà trước hết phải tuân theo những nguyên tắc tiến hành tố tụng cơ bản nêu trên.

BLTTHS 2015 ngoài việc kế thừa những quy định phù hợp của BLTTHS 2003 đã có một bước tiến dài so với BLTTHS 2003 khi có một điều luật - Điều 414 quy định cụ thể rò ràng 7 nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. BLTTHS 2015 đã xây dựng một hệ thống 7 nguyên tắc tiến hành tố tụng riêng đối với người dưới 18 tuổi nhằm bảo đảm mô hình tố tụng thân thiện vừa giải quyết đúng đắn VAHS vừa đảm bảo quyền lợi hợp pháp, nâng cao đến mức đối đa phúc lợi của các em. Những nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở tham khảo quy định của Công ước về quyền trẻ em và hướng dẫn, giải thích của LHQ về tư pháp người chưa thành niên, ví dụ nguyên tắc: bảo đảm lợi ích tốt nhất (the best interests); bảo đảm giữ bí mật cá nhân (the right to privacy); bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện (the right to have parents or the guardian participate in the proceedings); tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến (the right to be heard). Khi giải quyết VAHS các thủ tục tiến hành tố tụng cần phải được thực hiện trên cơ sở cân nhắc sao cho phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, nhận thức, mức độ trưởng thành của người dưới 18 tuổi.

Qua đây, có thể thấy BLTTHS 2015 phần lớn kế thừa và ghi nhận các quy định một cách bao quát hơn, không còn quá cụ thể, chi tiết. Bên cạnh đó, một số nguyên tắc một cách chung chung đã không còn xuất hiện trong Điều 414 BLTTHS 2015 mà được nhà làm luật cụ thể hóa thành các quy định cụ thể như:

- Quy định “Hạn chế đến mức thấp nhất số lần tiếp xúc giữa người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên với bị can, bị cáo” được BLTTHS 2015 quy định cụ thể nguyên tắc trong giai đoạn điều tra như hoạt động đối chất “Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ tiến hành đối chất giữa bị hại là người dưới 18 tuổi với bị can, bị cáo để làm sáng tỏ tình tiết của vụ án trong trường hợp nếu không đối chất thì không thể giải quyết được vụ án” [27]. Với việc quy định chi tiết hơn, các nhà mong muốn bảo vệ sự an

toàn của người bị hại và người làm chứng, bởi lẽ lời khai của hai đối tượng này rất có thể sẽ có thể chống lại lời khai của người bị buộc tội, từ đó tạo nên tâm lý thù hằn, mong muốn trả đũa.

- Quy định “Áp dụng các biện pháp phù hợp, cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo đảm người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên cũng như người thân thích của họ được an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác khi các quyền ấy bị đe dọa hoặc bị xâm hại”. Đối với quy định này BLTTHS 2015 không quy định về nguyên tắc riêng đối với người dưới 18 tuổi mà áp dụng cho tất cả những người bị hại, người làm chứng và người thân thích của họ nói chung tại Chương XXXIV.

- Bên cạnh đó, BLTTHS còn ghi nhận một số nguyên tắc như: bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện, một số chủ thể khác nhằm bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp cho người dưới 18 tuổi; nguyên tắc tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến; nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, quyền trợ giúp pháp lý của người CTN. Đây là những nguyên tắc mới đã thể hiện sự tiến bộ của Bộ luật mới nhằm thỏa mãn những yêu cầu mà LHQ ra.

2.2.2 Những vấn đề cần xác định khi tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi

Bên cạnh việc xác định các đối tượng cần chứng minh tại Điều 85 BLTTHS 2015, khi tiến hành tố tụng đối với người bị buộc là người dưới 18 tuổi nhằm đảm bảo tối ưu quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người phạm tội, cũng như áp dụng đúng đắn chính sách hình sự của Nhà nước để giáo dục người phạm tội trở thành người lương thiện, các cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định thêm những vấn đề sau:

- Tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên.

- Ðiều kiện sinh sống và giáo dục.

- Có hay không có người thành niên xúi giục.

- Nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội [27].

Theo quy định trên, những vấn đề này chỉ đặt ra thì tiến hành điều tra, truy tố, xét xử đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, không áp dụng đối với người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi. Người bị buộc tội theo luật tố tụng hình sự bao gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo [27]. Việc xác định đúng những đối tượng chứng minh này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giải quyết VAHS, cụ thể như sau:

Về xác định tuổi của người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích xác định có truy cứu hay không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó; quyết định hình phạt thích hợp và đảm bảo chế độ thi hành án đúng quy định của pháp luật đối với người dưới 18 tuổi. Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử những bị can, bị cáo thì CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án chỉ được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử khi có đầy đủ căn cứ kết luận rằng bị can bị cáo là người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó, dựa vào tuổi của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi để tính thời điểm áp dụng thủ tục tố tụng hình sự. Điều này có nghĩa tại thời điểm áp dụng các thủ tục tố tụng người bị buộc tội phải là người dưới 18 tuổi, nếu khi thực hiện hành vi phạm tội họ dưới 18 tuổi nhưng đến khi phát hiện, bị khởi tố điều tra, truy tố, xét xử mà đủ 18 tuổi thì không áp dụng thủ tục tố tụng đặc biệt mà sẽ áp dụng thủ tục tố tụng thông thường.

Trình độ phát triển về thể chất và tinh thần cũng như nhận thức về hành vi phạm tội nhằm đánh giá chứng cứ và xác định mức độ trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi. Để thực hiện được điều này người tiến hành tố tụng không chỉ dựa trên lời khai của người dưới 18 tuổi mà còn tìm hiểu thông qua người thân, người nuôi dưỡng, người giám hộ, nhà trường nơi họ học tập và cư trú, …

Về điều kiện sinh sống và giáo dục người dưới 18 tuổi có ảnh hưởng đến việc xác định một số đặc điểm liên quan tới hành vi phạm tội do họ gây ra và khả năng cải tạo, giáo dục, tái hòa nhập cộng đồng. Những điều kiện sinh sống và giáo dục cần được xác định gồm: điều kiện sống của gia đình; thái độ của cha mẹ đối với việc giáo dục con cái; môi trường sinh hoạt xung quanh; nội dung giáo dục của nhà trường; nơi làm việc; nơi cư trú có ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi hay không. Đây là những yếu tố ảnh hưởng đầu tiên và quan trọng nhất trong việc đào tạo tư cách và tính cách của người dưới 18 tuổi, theo chiều hướng phát triển lành mạnh hay hình thành nhân cách lệch lạc từ những thói quen, yếu tố tiêu cực từ môi trường sống.

Về có hay không có người thành niên xúi giục, việc xác định người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng nếu chứng minh được phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng chế thì được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được BLHS quy định [25]. Ngược lại, nếu xác định được có người thành niên xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội thì đây là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự [25]. Do đó, trong những vụ án mà người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cần phải xác định có người lớn xúi giục hay không là một yếu tố quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi. Ngoài ra, giúp cơ quan/người tiến hành tố tụng sớm phát hiện đồng phạm trong vụ án, kịp thời xử lý người xúi giục để lọt kẻ phạm tội; không làm oan người vô tội.

Về nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội, tìm hiểu những vấn đề này nhằm xác định con đường dẫn đến phạm tội của người dưới 18 tuổi góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có hiệu quả; đồng thời đề ra biện pháp khắc phục và ngăn ngừa hợp lý. Môi trường gia đình, nhà trường, xã hội luôn gắn bó mật thiết với nhau và tác động trực tiếp đến người dưới 18 tuổi. Theo đó, môi trường gia đình, nhà trường và xã hội được xem là những nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội; đặc điểm

tâm lý lứa tuổi người dưới 18 tuổi là điều kiện ảnh hưởng và tác động lẫn nhau một cách biện chứng làm phát sinh tội phạm ở người dưới 18 tuổi.

Tóm lại, khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, những người tiến hành tố tụng cần phải xác định rò các vấn đề trên để đánh giá về trình độ, khả năng nhận thức hành vi, diễn biến tâm lý, sự tác động của các yếu tố khách quan đối với hành vi phạm tội nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn xử lý các vụ án có người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng đồng thời bảo đảm sự tương thích với các hướng dẫn của LHQ đề ra.

2.2.1. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

Trong những vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện, với tính chất tố tụng đặc biệt, nhà làm luật đặt ra thêm các điều kiện đối với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo quá trình tố tụng đặc biệt này được thực hiện có hiệu quả. BLTTHS 2015 quy định Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên “phải là những người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi” [27]. Điều này có nghĩa trong giai đoạn điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện, những người này chỉ được phân công thụ lý giải quyết vụ án khi có những điều kiện: đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi; có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ tư pháp và Bộ lao động thương binh - xã hội đã ban hành Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP- BLĐTBXH về phối hợp thực hiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi (TTLT 06/2018) thay thế TTLT 01/2011. Trong đó quy định rò Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên khi được phân công tiến hành tố tụng đối với vụ án có người tham gia tố tụng

Ngày đăng: 24/06/2022