Cho đến nay, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trò của ĐTNN đã có nhiều thay đổi. Những thay đổi này xuất phát từ thực tiễn của nền kinh tế và do thay đổi về bối cảnh kinh tế trong khu vực và thế giới. Nếu như trước năm 2000, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN chưa được coi như một chủ thể độc lập trong nền kinh tế thì từ Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) trở lại đây, khu vực có vốn ĐTNN đã được khẳng định là một trong 6 thành phần cùng tồn tại trong nền kinh tế. Dưới đây nêu các mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi về quan niệm và nhận thức của Đảng và Nhà nước về vai trò của nguồn vốn ĐTNN đối với nền kinh tế:
- Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) và Đại hội VIII (1996) tuy không tách riêng khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thành một “thành phần kinh tế” trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam, song đã ghi nhận sự hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài, khẳng định khu vực ĐTNN “có vai trò to lớn trong động viên về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý…”. Với quan điểm như vậy, chính sách đối với khu vực có vốn ĐTNN trong thời kỳ này chủ yếu hướng vào việc khuyến khích các nhà đầu tư liên doanh với các DNNN của Việt Nam, hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế, trừ những lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế quốc dân và an ninh quốc phòng.
- Năm 2001, lần đầu tiên khu vực kinh tế có vốn ĐTNN được công nhận là một thành phần kinh tế với vai trò “hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm…”. Tại hội nghị TW Đảng lần thứ 9 (khóa IX), Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ “phải tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Theo đó, chính sách thu hút ĐTNN trong thời gian tới sẽ tập trung vào nâng cao chất lượng nguồn vốn ĐTNN đổ vào Việt Nam thông qua việc thu hút mạnh hơn nữa các tập đoàn xuyên quốc gia đầu
tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn…
- Trong văn kiện Đại hội lần thứ X, Đảng ta xác định: “các doanh nghiệp có vốn ĐTNN là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam nên cần được đối xử bình đẳng như doanh nghiệp Việt Nam trong kinh doanh”. Vì thế, chính sách thu hút ĐTNN sẽ hướng tới việc xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư, đồng thời tạo điều kiện cho ĐTNN tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta.
Thay đổi trong nhận thức và quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn ĐTNN là cơ sở quan trọng để Chính phủ sửa đổi và hoàn thiện các văn bản pháp luật và cơ chế chính sách thu hút vốn FDI và đối với hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong những năm gần đây.
2. Các cam kết quốc tế về đầu tư của Việt Nam [28]
Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về ĐTNN, trong những năm qua, Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia một số điều ước quốc tế song phương và đa phương về ĐTNN như một cơ chế không tách rời trong tổng thể chính sách khuyến khích và bảo đảm ĐTNN tại Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Sự Tất Yếu Khách Quan Của Việc Điều Chỉnh Chính Sách Đầu Tư Trước Xu Thế Hình Thành Các Hiệp Định Thương Mại Tự Do Tại Khu Vực Châu Á - Thái Bình
- Tình Hình Cấp Phép Đầu Tư Nước Ngoài Giai Đoạn 1988-2007
- Vốn Đầu Tư Thực Hiện Của Một Số Nước Và Vùng Lãnh Thổ Trong Giai Đoạn 2000-2004
- Chính Sách Thu Hút Đầu Tư Của Việt Nam Trước Xu Thế Hình Thành Các Hiệp Định Thương Mại Tự Do Tại Châu Á - Thái Bình Dương
- Hướng Dẫn Của Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Của Các Doanh Nghiệp Có Vốn Đtnn
- Điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam trước xu thế hình thành hiệp định thương mại tự do tại châu Á Thái Bình Dương - 11
Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.
2.1. Các hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư
Tính đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ký kết hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 46 nước và lãnh thổ (xem phụ lục 2 kèm theo). Với việc ký kết Hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư đầu tiên với Italia vào ngày 18/05/1990, có thể nói, Việt Nam đã sớm nhận thức vai trò và tầm quan trọng của các cơ chế pháp lý quốc tế về đầu tư. Tất cả các biện pháp về khuyến khích và bảo hộ đầu tư mà Việt Nam đã cam kết thực hiện đều phù hợp với những tiêu chuẩn và tập quán quốc tế thông dụng; cụ thể là:
- Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích đầu tư của Bên ký kết bằng việc chấp thuận đầu tư đó phù hợp với pháp luật của mình, trên nguyên tắc công bằng, thỏa đáng, không gây phương hại bằng biện pháp bất hợp lý và phân biệt đối xử.
- Thực hiện các biện pháp bảo hộ đầu tư bằng việc cam kết không trưng thu, trưng dụng tài sản của các nhà đầu tư bằng các biện pháp hành chính; trừ trường hợp vì mục đích công cộng, theo phương thức không phân biệt đối xử và bồi thường nhanh chóng, đầy đủ, có hiệu quả, theo đúng giá thị trường và phù hợp với thủ tục luật định…Các biện pháp tước quyền sở hữu cũng như đền bù thiệt hại phải được thực hiện trên nguyên tắc đối xử tối huệ quốc.
- Đảm bảo quyền chuyển vốn, lợi nhuận và các khoản thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư về nước trên nguyên tắc “thực hiện nhanh chóng, không chậm trễ và bằng đồng tiền tự do chuyển đổi”.
- Công nhận quyền của nhà đầu tư trong việc đưa vụ tranh chấp với cơ quan Nhà nước ra giải quyết tại tòa hành chính, Ủy ban về Luật thương mại quốc tế của Liên hiệp quốc (UNCITRAL), Trung tâm quốc tế giải quyết các tranh chấp về đầu tư (ICSID) hoặc bất kỳ cơ chế giải quyết tranh chấp nào đã thỏa thuận trước đó.
2.2. Chương trình phát triển quan hệ đầu tư trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Cho tới nay, Việt Nam đã ký kết hiệp định thương mại với khoảng 100 nước. Trong đó, hiệp định thương mại ký kết với Chính phủ Hoa Kỳ vào ngày 13/7/2000 là hiệp định đầu tiên được ký kết theo tiêu chuẩn của WTO – một hiệp định toàn diện mở cửa thị trường Việt Nam cho các hàng hóa và dịch vụ Hoa Kỳ, thúc đẩy cải cách, gắn Việt Nam chặt chẽ hơn vào nền kinh tế thế giới, tạo ra cơ sở cho Việt Nam gia nhập WTO. Mặc dù chỉ là một bộ phận trong Hiệp định thương mại, nhưng Chương về phát triển quan hệ đầu tư có nội dung tương tự như một hiệp định song phương hoàn chỉnh về khuyến
khích và bảo hộ đầu tư giữa hai nước. Phạm vi hoạt động đầu tư được bảo hộ theo quy định tại Chương này không chỉ bao gồm đầu tư trực tiếp mà còn cả đầu tư gián tiếp dưới hình thức cổ phiếu, trái phiếu, các loại tài sản hữu hình, vô hình, quyền sở hữu trí tuệ và các quyền về tài sản hoặc quyền theo hợp đồng khác…
Đặc biệt, ngoài việc thực hiện các tiêu chuẩn về khuyến khích và bảo hộ đầu tư tương tự như các hiệp định song phương nói trên, lần đầu tiên, Việt Nam cam kết với tính chất ràng buộc (binding) việc dành đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc cho nhà đầu tư Hoa Kỳ; cụ thể là:
Thu hẹp, tiến tới xóa bỏ các hạn chế ĐTNN
Việt Nam cam kết loại bỏ trong vòng từ 5-7 năm một số quy định của pháp luật hiện hành không phù hợp với Hiệp định của WTO về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (như yêu cầu xuất khẩu đối với một số sản phẩm công nghiệp; yêu cầu phát triển nguồn nguyên liệu đối với dự án chế biến đường mía, dầu thực vật, sữa, gỗ; yêu cầu nội địa hóa đối với các ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử dân dụng). Đối với một số yêu cầu cụ thể khác của Hiệp định nói trên, Việt Nam xóa bỏ ngay sau ngày Hiệp định có hiệu lực quy định về cân đối xuất – nhập khẩu và yêu cầu về quản lý ngoại hối đối với hàng nhập khẩu.
Từng bước thực hiện chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư
Theo cam kết này, Việt Nam được quyền duy trì không thời hạn chế độ thẩm định cấp giấy phép đầu tư đối với hầu hết các dự án Nhóm A thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Đối với các dự án này, Việt Nam sẽ công khai hóa các tiêu chuẩn về việc cấp hoặc từ chối cấp giấy phép đầu tư và thực hiện chế độ cấp phép, quản lý giấy phép trên cơ sở đối xử tối huệ quốc.
Ngoài các dự án nói trên, trong vòng từ 2 đến 9 năm, Việt Nam sẽ thực hiện từng bước chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất, các dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao và các dự án đầu tư vào
KCN, KCX, KCNC. Thủ tục đăng ký chỉ yêu cầu cung cấp các thông tin cơ bản liên quan đến nhà đầu tư và dự án đầu tư dự kiến, đồng thời chấp thuận nhanh chóng mà không kèm theo bất kỳ điều kiện nào. Đối với các dự án này, trong vòng 6 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ thực hiện chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư trên cơ sở đối xử quốc gia.
Mở rộng phương thức huy động vốn và xóa bỏ một số hạn chế liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý của doanh nghiệp ĐTNN
Việt Nam cam kết cho phép nhà đầu tư Hoa Kỳ góp vốn, tăng vốn, tái đầu tư bằng tiền Việt Nam thu được từ hoạt động kinh doanh hợp pháp. Đối với một số hạn chế về vốn đầu tư, Việt Nam cam kết xóa bỏ trong vòng 3 năm các quy định như: (i) yêu cầu về tỷ lệ góp vốn tối thiểu 30% của nhà đầu tư Hoa Kỳ trong doanh nghiệp liên doanh; (ii) yêu cầu về tỷ vốn pháp định tối thiểu 30% trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư của Hoa Kỳ; và (iii) yêu cầu bắt buộc chuyển nhượng phần vốn góp của nhà đầu tư Hoa Kỳ cho doanh nghiệp Việt Nam.
Cũng trong thời hạn nói trên, Việt Nam cho phép các nhà đầu tư Hoa Kỳ thành lập công ty cổ phần; loại bỏ nguyên tắc nhất trí và quy định tổng giám đốc hoặc phó tổng giám đốc thứ nhất doanh nghiệp liên doanh phải là công dân Việt Nam.
Thực hiện lộ trình áp dụng thống nhất giá, phí một số hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp ĐTNN
Theo đó, Việt Nam cam kết không áp dụng các loại giá, phí mới gây phân biệt đối xử nặng hơn giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn ĐTNN, đồng thời xóa bỏ trong thời hạn 4 năm hệ thống hai giá hiện hành (gồm giá điện, nước, viễn thông, hàng không, phí cảng biển quốc tế, phí đăng kiểm phương tiện cơ giới, phí tham quan du lịch,…).
Tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, tuyển dụng lao động chuyển giao công nghệ theo hướng
- Cho phép nhà đầu tư Hoa Kỳ lưu chuyển và tuyển dụng nhân viên nước ngoài thuộc mọi quốc tịch vào các cương vị quản lý cao nhất để phục vụ cho hoạt động đầu tư của họ trên lãnh thổ nước mình phù hợp với pháp luật về nhập cảnh và tạm trú của người nước ngoài.
- Không áp đặt các yêu cầu đối với việc chuyển giao công nghệ, quy trình sản xuất trừ trường hợp áp dụng quy định về bảo vệ môi trường và bảo đảm thi hành phán quyết của tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền đối với các vi phạm pháp luật về cạnh tranh đang bị khiếu kiện.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh theo hướng cho phép nhà đầu tư Hoa Kỳ nhập khẩu thiết bị văn phòng phục vụ cho hoạt động kinh doanh; được tiếp cận và sử dụng nơi làm việc trên cơ sở không phân biệt đối xử; được thuê đại lý, nhà tư vấn, nhà phân phối theo giá cả thỏa thuận; được quảng cáo và bán hàng hóa, dịch vụ trực tiếp; được dự trữ đầy đủ hàng mẫu và phụ tùng thay thế phục vụ cho dịch vụ sau bán hàng…
2.3. Cam kết về đầu tư trong khuôn khổ các tổ chức và diễn đàn khu vực
Từ năm 1995 đến nay, cùng với việc tham gia một số tổ chức/diễn đàn khu vực (ASEAN, APEC, ASEAM), gia nhập WTO, hoạt động hội nhập quốc tế về đầu tư của Việt Nam đã được triển khai nhanh chóng cả trong khuôn khổ song phương và đa phương. Một đặc điểm nổi bật trong giai đoạn này là đồng thời với việc ký tiếp một số hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư theo những nguyên tắc đã trình bày ở trên, Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia các điều ước và diễn đàn quốc tế sau:
Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA)
Nhằm tăng sức hấp dẫn và cạnh tranh thu hút ĐTNN của khu vực và khắc phục các hạn chế của cuộc khủng hoảng, vào ngày 7/10/1998, các nước thành viên đã đạt được thỏa thuận ký kết hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN. Mục đích của hiệp định này là tạo ra khu vực đầu tư tự do trong nội bộ các nước ASEAN vào năm 2010 và cho các nước ngoài ASEAN vào năm 2020 thông qua hàng loạt các chương trình tự do hóa, thu hút và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Nguyên tắc quan trọng nhất của hiệp định này là thực hiện chế độ đối xử quốc gia (NT) và mở cửa các ngành nghề cho các nhà đầu tư theo một lộ trình và với những ngoại lệ trong một số lĩnh vực và vấn đề nhất
định. Theo đó, ngoài các biện pháp và lĩnh vực được chủ động liệt kê trong các Danh mục loại trừ tạm thời và Danh mục nhạy cảm của mình, Việt Nam sẽ dành đối xử quốc gia và mở cửa ngành nghề cho các nhà đầu tư ASEAN ngay sau khi hiệp định có hiệu lực.
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) bao gồm các biện pháp hoặc các lĩnh vực tạm thời chưa thể dành đối xử quốc gia hoặc mở cửa ngay cho các nhà đầu tư ASEAN, được xem xét lại 2 năm 1 lần, nhưng sẽ được loại bỏ dần trong khung thời hạn thực hiện AIA (đối với Việt Nam là 2013) (xem phụ lục 3 kèm theo).
Danh mục nhạy cảm (SL) bao gồm các biện pháp hoặc lĩnh vực chưa thể xác định thời hạn dành đối xử quốc gia hoặc mở cửa ngay cho các nhà đầu tư ASEAN, nhưng sẽ được xem xét lại trong năm 2003 để sau đó, trong từng thời kỳ, rút ngắn hoặc chuyển dần sang Danh mục loại trừ tạm thời (xem phụ lục 3 kèm theo).
Chương trình hành động về tự do hóa đầu tư của APEC (IAP)
Ngay khi gia nhập APEC vào tháng 11/1998, Việt Nam đã xây dựng kế hoạch hành động quốc gia (IAP) về tự do hóa đầu tư phù hợp với các mục tiêu của APEC. Căn cứ các yêu cầu của APEC cũng như các đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Diễn đàn này, trong những năm qua, Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch hành động về tự do hóa đầu tư của Diễn đàn này với những mục tiêu và nội dung chủ yếu sau: Việt Nam cam kết dành đối xử quốc gia đầy đủ cho các nhà đầu tư nước ngoài vào năm 2020; từng bước tạo mặt bằng pháp lý và áp dụng thống nhất chính sách thuế, các loại giá dịch vụ (thuê đất, điện, nước, bưu chính, viễn thông, hàng không,…) cho nhà đầu tư trong nước và nhà ĐTNN; tăng cường tính minh bạch và có thể dự đoán trước được của pháp luật, chính sách về ĐTNN; cải tiến thủ tục đầu tư; giảm dần các yêu cầu hoạt động đối với dự án ĐTNN phù hợp với hiệp định TRIMs; từng bước