Điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam trước xu thế hình thành hiệp định thương mại tự do tại châu Á Thái Bình Dương - 11


Nam; các dự án gây tổn hại đến sức khỏe của nhân dân, làm hủy hoại tài nguyên, phá hủy môi trường; các dự án xử lý phế thải độc hại đưa từ bên ngoài vào Việt Nam, sản xuất các loại hóa chất độc hại hoặc sử dụng tác nhân độc hại bị cấm theo điều ước quốc tế.

Căn cứ vào quy hoạch định hướng phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ và cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, Chính phủ ban hành sửa đổi hoặc bổ sung Danh mục các địa bàn ưu đãi đầu tư; Danh mục các lĩnh vực ưu đãi đầu tư; Danh mục các lĩnh vực đầu tư có điều kiện; Danh mục các lĩnh vực cấm đầu tư.

c) Đảm bảo quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh

Doanh nghiệp có vốn ĐTNNcó quyền lựa chọn hình thức đầu tư, phương thức huy động vốn, địa bàn quy mô đầu tư, đối tác đầu tư và thời gian hoạt động của dự án.

Doanh nghiệp có vốn ĐTNN có toàn quyền quyết định chương trình, kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình, thông qua hội đồng quản trị, Hội đồng quản trị do các bên chỉ định theo tỷ lệ góp vốn.

d) Đảm bảo đối xử công bằng đối với nhà ĐTNN tại Việt Nam

Đảm bảo đối xử công bằng đối với nhà ĐTNN tại Việt Nam, tức là khi nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thì Chính phủ Việt Nam sẽ phải cho nhà ĐTNN được hưởng tất cả các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư cũng như tổ chức và cá nhân Việt Nam, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật Việt Nam. Trước đây, doanh nghiệp có vốn ĐTNN phải chịu chế độ hai giá khi mua một số hàng hóa, dịch vụ cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Điều này gây bất bình cho các nhà ĐTNN vì giá đầu vào cao hơn dẫn đến chi phí sản xuất cao ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh về giá hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN sản xuất ra. Đây cũng là một trong những nguyên nhân hạn chế khả


năng thu hút ĐTNN. Hiện nay, Luật Đầu tư 2005 ra đời áp dụng thống nhất cho nhà đầu tư trong nước và nhà ĐTNN. Theo đó, nhà ĐTNN được đối xử bình đẳng như nhà đầu tư trong nước. Điều đó có nghĩa là, trong quá trình hoạt động đầu tư tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài được áp dụng thống nhất giá, phí, lệ phí đối với hàng hóa và dịch vụ do Nhà nước kiểm soát như điện, nước, bưu chính viễn thông, vận tải,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

e) Đảm bảo đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật, chính sách

Theo điều 11, Luật Đầu tư quy định: Trường hợp pháp luật, chính sách mới được ban hành có các quyền lợi, ưu đãi cao hơn so với quyền lợi, ưu đãi mà nhà đầu tư đã được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được hưởng các quyền lợi, ưu đãi mới kể từ ngày pháp luật, chính sách mới đó có hiệu lực.

Điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam trước xu thế hình thành hiệp định thương mại tự do tại châu Á Thái Bình Dương - 11

Trường hợp pháp luật, chính sách mới được ban hành làm ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích hợp pháp mà nhà đầu tư đã được hưởng trước khi pháp luật, chính sách mới đó có hiệu lực thì nhà đầu tư được đảm bảo hưởng các ưu đãi như quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư hoặc được giải quyết bằng một, một số hoặc các biện pháp sau:

- tiếp tục hưởng các quyền lợi ưu đãi;

- được trừ thiệt hại vào thu nhập chịu thuế;

- được điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án;

- được xem xét bồi thường trong một số trường hợp cần thiết.

f) Đảm bảo giải quyết tranh chấp

Tranh chấp mà một bên là nhà ĐTNN hoặc doanh nghiệp có vốn ĐTNN hoặc tranh chấp giữa các nhà ĐTNN với nhau thì được giải quyết thông qua một trong những cơ quan, tổ chức sau: Tòa án Việt Nam; Trọng tài Việt Nam; Trọng tài nước ngoài; Trọng tài quốc tế; Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập. Trước đây, theo Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, các tranh chấp giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với doanh nghiệp Việt


Nam được giải quyết tại Tòa án hoặc Trọng tài Việt Nam theo pháp luật Việt Nam. Quy định này có phần thiên vị cho doanh nghiệp Việt Nam.

Tranh chấp giữa nhà ĐTNN với cơ quan quản lý Nhà nước Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam dược giải quyết thông qua trọng tài hoặc tòa án Việt Nam, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng được ký giữa đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền với nhà ĐTNN hoặc trong Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Hiện nay, hầu hết các nước có đầu tư tại Việt Nam đã ký các Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư với Việt Nam thì các tranh chấp giữa nhà ĐTNN và cơ quan quản lý Nhà nước Việt Nam, nhà đầu tư có quyền lựa chọn tổ chức trọng tài Việt Nam hoặc tổ chức trọng tài nước ngoài để giải quyết tranh chấp. Mặt khác, khi Việt Nam tham gia Công ước giải quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư và nước chủ nhà (Công ước ICSID) thì những quốc gia chưa ký kết Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư nhưng đã là thành viên của Công ước ICSID thì đương nhiên vụ tranh chấp sẽ được giải quyết theo Công ước này.

3.4. Các chính sách ưu đãi đầu tư

Cũng như các nước khác trên thế giới, hoạt động ĐTNN được Chính phủ Việt Nam dành những ưu đãi sau:

3.4.1. Ưu đãi về thuế

Ưu đãi về thuế là một trong những nội dung chính của chính sách ưu đãi tài chính. Ưu đãi thuế bao gồm các biện pháp miễn thuế, giảm thuế, áp dụng mức thuế suất ưu đãi. Qua 20 năm qua, chính sách ưu đãi thuế đối với nhà ĐTNN đã có những thay đổi đáng kể. Điều này thể hiện qua các lần sửa đổi Luật Đầu tư, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế xuất nhập khẩu, Luật Thuế giá trị gia tăng,

a) Thuế thu nhập doanh nghiệp


Quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp là vấn đề được các nhà ĐTNN rất quan tâm khi đầu tư vào Việt Nam bởi quy định này liên quan tới lợi ích sát sườn của nhà đầu tư. Việc đánh thuế cao quá dẫn đến giảm lợi nhuận kinh doanh sẽ làm nản lòng nhà đầu tư.

Trước đó, theo Điều 38 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định: Doanh nghiệp có vốn ĐTNN và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh nộp thuế lợi tức 25% lợi nhuận thu được; trong trường hợp khuyến khích đầu tư, mức thuế lợi tức là 20% lợi nhuận thu được; trường hợp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư, thì mức thuế lợi tức là 15% lợi nhuận thu được; trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu tư thì mức thuế lợi tức là 10% lợi nhuận thu được.

Theo nghị định của Chính phủ số 24/2007/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2007 quy định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp thì doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng như trong nước nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất là 28%. Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư sẽ được hưởng mức thuế suất ưu đãi trong thời gian áp dụng mức thuế suất ưu đãi. Cụ thể theo điều 34 nghị định của Chính phủ số 24/2007/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2007:

- Mức thuế suất 20%, áp dụng trong 10 năm, kể từ khi bắt đầu đi vào hoạt động kinh doanh, đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư vào lĩnh vực, ngành nghề thuộc Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư hoặc đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư thực hiện tại địa bàn thuộc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn.

- Mức thuế suất 15%, áp dụng trong thời gian 12 năm, kể từ khi bắt đầu đi vào hoạt động đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư vào ngành nghề, lĩnh vực thuộc Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư và thực hiện tại địa bàn thuộc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn.


- Mức thuế suất 10%, áp dụng trong thời gian 15 năm, kể từ khi bắt đầu đi vào hoạt động đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư vào ngành nghề, lĩnh vực thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư. Trường hợp cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư vào ngành nghề, lĩnh vực thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư và có ảnh hưởng lớn về kinh tế, xã hội cần được khuyến khích cao hơn, Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định áp dụng mức thuế suất ưu đãi 10% trong suốt thời gian thực hiện dự án.

Như vậy, mức thuế thu nhập doanh nghiệp trong quy định mới cao hơn quy định cũ và mức thuế suất ưu đãi không khác so với quy định cũ (10%, 15%, 20%). Tuy nhiên, hiện nay điều kiện để được hưởng mức thuế suất ưu đãi đầu tư thông thoáng hơn rất nhiều. Chẳng hạn, trước đây chỉ để được hưởng mức thuế suất ưu đãi mức thuế suất ưu đãi 20%, thì nhà ĐTNN phải đáp ứng một trong các tiêu chuẩn sau:

- Xuất khẩu ít nhất 50% sản phẩm;

- Sử dụng từ 500 lao động trở lên;

- Nuôi trồng, chế biến nông sản, lâm sản, hải sản;

- Sử dụng công nghệ tiên tiến, đầu tư vào nghiên cứu phát triển;

- Sử dụng nhiều nguyên liệu, vật tư sẵn có tại Việt Nam; chế biến và khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam, sản xuất sản phẩm có tỷ lệ nội địa hóa cao,

Qua đó, có thể thấy, yêu cầu để được hưởng ưu đãi rất khắt khe (về tỷ lệ xuất khẩu) và lĩnh vực ưu đãi cũng rất hạn chế khiến nhà ĐTNN khó mà đạt được những yêu cầu đề ra để hưởng mức thuế suất ưu đãi. Điều này đã làm nản lòng các nhà ĐTNN.

Hiện nay, Việt Nam dành mức ưu đãi thuế suất cho nhà ĐTNN nhằm khuyến khích và định hướng nhà ĐTNN đầu tư vào các lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư. Danh mục về địa bàn, lĩnh vực đầu tư được quy định cụ


thể rõ ràng trong Nghị định số 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Đầu tư. Có thể thấy, phạm vi các lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư rất rộng và thiết thực. Do đó, nhà ĐTNN có thể dễ dàng lựa chọn lĩnh vực đầu tư vừa có lợi cho nhà ĐTNN vừa theo định hướng của Nhà nước và đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam.

Bên cạnh đó, theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003, Việt Nam cho các nhà đầu tư được hưởng thời hạn miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các trường hợp: Dự án đầu tư thành lập cơ sở kinh doanh mới và cơ sở kinh doanh di chuyển địa điểm; Cơ sở kinh doanh đang hoạt động có đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất; Cơ sở kinh doanh được miễn thuế thu nhập cho phần thu nhập từ hợp đồng nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ, phần thu nhập từ doanh thu bán sản phẩm trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm theo đúng quy trình sản xuất, nhưng tối đa không quá 06 tháng, kể từ ngày bắt đầu sản xuất thử nghiệm,và các trường hợp khác.

Một điểm mới nữa là hiện nay, Việt Nam đã loại bỏ quy định đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Trước đây, theo điều 43, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996: Khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nhà ĐTNN phải nộp một khoản thuế là 5%, 7%, 10% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, tùy thuộc vào mức vốn góp của nhà ĐTNN vào vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn ĐTNN hoặc vốn thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Sau đó, Luật sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000 có điều chỉnh mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 3%, 5%, 7%. Tuy nhiên, việc đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là không minh bạch và tạo sự đối xử bất bình đẳng giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. Về bản chất, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài cũng là một loại thuế thu nhập doanh nghiệp, do đó việc quy định thuế


chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đồng nghĩa với việc đánh thuế 2 lần đối với thu nhập của doanh nghiệp nước ngoài.

Trong thông tư 26/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính về Hướng dẫn thực hiện quy định về Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và hoàn thuế tái đầu tư đối với nhà ĐTNN có nêu: “Từ ngày 1/1/2004, các khoản thu nhập hợp pháp mà các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân nước ngoài thu được do tham gia đầu tư vốn dưới bất kỳ hình thức nào theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, kể cả cá nhân là người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước và người nước ngoài thường trú ở Việt Nam đầu tư theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (bao gồm cả số thuế thu nhập đã được hoàn trả cho số thu nhập tái đầu tư và thu nhập do chuyển nhượng vốn, mua cổ phần), khi chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc giữ lại ngoài Việt Nam không phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (kể cả khoản lợi nhuận phát sinh trước ngày 31/12/2003)”. Thông tư này đã xóa bỏ sự lo lắng của nhà ĐTNN về việc nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, và đây là một bước tiến đáng kể của Nhà nước trong việc thu hút ĐTNN. Quy định này đã được khẳng định chắc chắn lần nữa trong Luật Đầu tư 2005: “Nhà ĐTNN được chuyển ra nước ngoài lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam”.

Như vậy, chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay khá là thông thoáng và có tính thiết thực cao. Quy định này góp phần làm tăng tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư của Việt Nam. Thực tế kết quả thu hút ĐTNN từ năm 2006 trở lại đây đã cho thấy được hiệu quả của việc điều chỉnh chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng và chính sách thu hút ĐTNN của Việt Nam nói chung.


b) Thuế xuất nhập khẩu

Một yếu tố quan trọng để làm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư đó là chính sách thuế phải đảm bảo ổn định, minh bạch, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Chính sách thuế xuất nhập khẩu tác động trực tiếp tới chi phí đầu vào của doanh nghiệp đồng thời cũng nhằm khuyến khích doanh nghiệp ĐTNN sản xuất hàng xuất khẩu. Có thể thấy rằng, sự phát triển mạnh của khu vực các doanh nghiệp có vốn ĐTNN xét trên khía cạnh nhất định là thước đo đánh giá sức hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam.

Nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước sản xuất hàng xuất khẩu, Việt Nam thực hiện mức thuế xuất khẩu 0% đối với hầu hết các loại hàng hóa.

Nếu như trước đây, việc miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ được áp dụng để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp có vốn ĐTNN (doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) và để tạo tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh thì hiện nay, Việt Nam thực hiện chính sách ưu đãi thuế theo một hướng mới. Cụ thể, theo Luật Thuế xuất nhập khẩu 2005, Việt Nam thực hiện chính sách miễn thuế nhập khẩu cho: Hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án khuyến khích đầu tư, dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA; Hàng hóa nhập khẩu để phục vụ hoạt động dầu khí; Hàng hóa nhập khẩu để sử dụng trực tiếp vào hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất của dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

Quy định này nhằm định hướng và khuyến khích các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà ĐTNN đầu tư vào các hoạt động Việt Nam khuyến khích như hoạt động khai thác dầu khí, hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn mà Nhà nước khuyến khích đầu tư.

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 01/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí