Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - 2


cận cùng phát triển. Hầu hết FDI vào các ngành công nghiệp đều có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, đặc biệt là ngành công nghiệp khai khoáng, nhiệt điện, hóa chất,... Số lượng và qui mô dự án FDI tập trung vào các lĩnh vực giáo dục đào tạo, cấp nước và xử lý chất thải, y tế và trợ giúp xã hội,... còn rất nhỏ bé. Bên cạnh đó, sự hoạt động của khu vực các doanh nghiệp có vốn FDI cũng đang xuất hiện những ảnh hưởng tiêu cực đến sự PTBV của vùng KTTĐ Bắc Bộ. Về mặt kinh tế, xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp FDI “lỗ giả, lãi thật”, trốn thuế làm thất thu thuế của Nhà nước; hiện tượng nợ xấu và chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI khá phổ biến và có biểu hiện ngày càng gia tăng. Khu vực doanh nghiệp FDI chưa thực sự tạo ra tác động lan tỏa lớn đối với nền kinh tế của vùng. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp FDI còn rất lỏng lẻo. Về mặt xã hội, khu vực FDI góp phần tạo mở và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong vùng, song chưa chú trọng đến việc nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động; đời sống vật chất và tinh thần của người lao động chưa được quan tâm một cách thỏa đáng. Về mặt môi trường, ý thức chấp hành pháp luật BVMT của các doanh nghiệp có vốn FDI chưa tốt với các biểu hiện như chưa quan tâm đầu tư cho công tác BVMT, cố tình vi phạm pháp luật BVMT... đã ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sinh thái và sức khỏe của dân cư trong vùng. Tất cả những tác động tiêu cực đó đang là rào cản tiềm ẩn nguy cơ, thách thức to lớn đối với sự PTBV của vùng KTTĐ Bắc Bộ.

Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn trên đây, việc làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận về

FDI theo hướng PTBV; đánh giá đúng đắn, khách quan thực trạng FDI theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ và tìm kiếm các giải pháp thu hút và quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI như thế nào để đảm bảo PTBV cho vùng KTTĐ Bắc Bộ trên cba trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường là yêu cầu cấp bách. Nhằm hướng đến việc đáp ứng yêu cầu đó, đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ” được tác giả lựa chọn để nghiên cứu.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận về FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ; đánh giá đúng đắn thực trạng FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ Bắc Bộ, luận án đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu trên, luận án sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau đây:

- Hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV vùng KTTĐ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.


- Tìm hiểu kinh nghiệm của một số quốc gia Châu Á về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV và rút ra một số bài học đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - 2

- Phân tích, đánh giá thực trạng FDI theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ, bao gồm những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh FDI theo hướng

PTBV ở vùng KTTĐ Bắc B ộ trong thời gian tới.

3. Đối tượng v à phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của l uận án là đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung:

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư có liên quan đến 2 chủ thể: nhà ĐTNN và nước tiếp nhận đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động này là mục tiêu lợi nhuận, còn mục tiêu của nước tiếp nhận đầu tư là lợi ích kinh tế - xã hội mà FDI mang lại. Do đó, xét dưới góc độ là nước tiếp nhận đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV thực chất là việc nước tiếp nhận đầu tư làm thế nào để hoạt động FDI mang lại nhiều tác động tích cực và đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững cho quốc gia đó, vùng hoặc địa phươ ng đó.

Với ý nghĩa đó, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, luận án sẽ nghiên cứu những ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến PTBV của vùng KTTĐ Bắc Bộ trên cả ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường . Trên cơ sở phân tích và đánh giá những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của FDI đến PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ, luận án chỉ ra những nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy FDI theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ. Trong đó:

+ Khái niệm đầu tư được nghiên cứu trong luận án được hiểu là hoạt độ ng đầu tư, là hoạt động bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích thu lợi nhuận.

+ Luận án không nghiên cứu sự PTBV trong nội tại của khu vực các doanh nghiệp có vốn FDI, mà nghiên cứu FDI tác động đến PTBV ở nước tiếp nhận đầu tư, cụ thể là vùng KTTĐ Bắc Bộ.

+ Vai trò quản lý nhà nước về FDI theo hướng PTBV chỉ được xem xét có chừng mực, dưới lát cắt là những nhân tố ảnh hưởng, là nguyên nhân của những hạn chế đối với FDI theo hướng PTBV.


+ Chủ thể tham gia định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ là Nhà nước Trung ương, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp FDI và các tổ chức xã hội.

- Về không gian: Luận án nghiên cứu FDI theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ, trên địa bàn 7 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc.

- Về thời gian nghiên cứu:

Luận án nghiên cứu FDI theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ chủ yếu trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2011. Ngoài ra, một số nội dung trong luận án được phân tích với số liệu cập nhật đến năm 2012.

4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa vào những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm và chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về huy động v ốn nước ngoài vào phát triển kinh tế qua các Văn kiện Đại hội; định hướng chiến lược PTBV của Việt Nam; chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chủ trương, chính sách thu hút vốn FDI của vùng KTTĐ Bắc Bộ; tham khảo một số lý thuyết kinh tế học hiện đại về vai trò của FDI trong tăng trưởng và phát triển kinh tế, về vấn đề quy hoạch phát triển vùng.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó đặc biệt chú trọng vào các phương pháp sau đây:

- Phương pháp hệ thống hoá: Phương pháp này được sử dụng trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV (chương 1) và trong phần cơ sở lý luận của đề tài luận án (chương 2), nhằm nhìn nhận vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện hơn, từ đó, xác định được nội dung cần tập trung nghiên cứu của luận án.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong phần đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài th eo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ (chương 3), trên cơ sở khung lý thuyết đã được xây dựng ở Chương 2.

- Phương pháp thống kê và so sánh: Phương pháp này được sử dụng trong phần đánh giá thực trạng ở chương 3.

- Phương pháp quy nạp và diễn dịch: Phương pháp này được sử dụng nhằm làm rõ các khái niệm trung tâm của vấn đề nghiên cứu.

- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này được dùng để tham vấn và kiểm nghiệm các luận chứng, phân tích, đánh giá thông qua các chuyên gia đầu ngành nghiên


cứu về FDI, cũng như các nhà hoạch định chính sách đối với FDI. Những gợi ý chính sách của các chuyên gia sẽ rất hữu ích cho tác giả trong quá trình đưa ra những giải pháp ở chương 4.

4.3. Nguồn số liệu

Nguồn số liệu sử dụng trong luận án chủ yếu là nguồn số liệu thứ cấp, bao gồm:

- Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vùng KTTĐ Bắc Bộ;

- Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Tài nguyên và Môi trường;

- Số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; S

Tài nguyên và Môi trường của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vùng KTTĐ Bắc Bộ;

- Số liệu điều tra, khảo sát của các Viện nghiên cứu có liên quan như Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện PTBV vùng KTTĐ Bắc Bộ, Viện Khoa học Quản lý Môi trường, Viện Công nhân và Công đoàn,...

- Các kết quả nghiên cứu đã được công bố tại các cuộc Hội thảo, các bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành.

5. Đóng góp của luận án

- Về mặt lý luận:

+ Xây dựng khái niệm, đặc điểm và chỉ rõ yêu cầu đối với FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ.

+ Xác định nội dung và các tiêu chí đánh giá FDI theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ trên cả ba khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường.

+ Làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ.

+ Đúc rút những bài học kinh nghiệm về FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ của một số quốc gia Châu Á, bổ sung vào lý luận về FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ.

- Về mặt thực tiễn:

+ Làm rõ thực trạng của FDI theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ, những hạn chế và nguyên nhân của nó.

+ Đxuất những định ớng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh FDI theo hướng phát triển bền vững ở vùng KTTĐ Bắc Bộ trong thời gian tới.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo phụ lục, nội dung của luận án được trình bày trong 4 chương, 10 tiết.


Chương 1

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC N GOÀI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA CÁC TÁC GIẢ NGOÀI NƯỚC

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động đến tăng trưởng kinh tế

Đây là nội dung nghiên cứu được nhiều học giả nước ngoài quan tâm nhiều nhất và có nhiều công trình nghiên cứu nhất. Tiêu biểu cho nhóm nghiên cứu này bao gồm:

Nghiên cứu của De Mello (1999) lấy mẫu ở 16 nước phát triển và 17 nước đang phát triển, ông đã chỉ ra rằng: FDI ròng có hiệu quả tích cực và quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế thời kỳ 1970 - 1990. Song, đối với các nước đang phát triển thì FDI có tác động đến tăng trưởng kinh tế lớn hơn, còn đối với các nước phát triển thì nhỏ hơn.

Nghiên cứu của Campos và Kionoshita (2002) với mẫu nghiên cứu nhỏ hơn, bao

gồm 25 nước Trung và Đông Âu, c ùng các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi thuộc Liên Xô cũ, các tác giả cho rằng "FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế tại các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi". Bởi vì, tại các nước đang chuyển đổi có quá trình CNH diễn ra mạnh mẽ hơn và họ có lực lượng lao động được đào tạo tốt hơn.

Nghiên cứu của các học giả Berthelemy và Demurger (2000); Graham và Wada (2001) và Buckey et al (2002), sử dụng số liệu FDI phân theo địa phương của Trung Quốc cho thấy, FDI đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các tỉnh. Các tỉnh ven biển, nơi thu hút phần lớn FDI của Trung Quốc đã sử dụng FDI có hiệu quả hơn so với các tỉnh khác.

Nghiên cứu của Blomstrom et al (1992) chia các nước đang phát triển thành hai nhóm, đó là: các nước có thu nhập thấp hơn và các nước có thu nhập cao hơn. Ông nhận xét, FDI chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước có thu nhập cao hơn. Tác giả kết luận, nước tiếp nhận đầu tư chỉ được hưởng lợi từ FDI, khi đạt được mức độ phát triển nhất định, để có thể t iếp thu được công nghệ mới. Nói cách khác, mức thu nhập là điều kiện tiên quyết cho sự ảnh hưởng tích cực của FDI đến tăng trưởng kinh tế. Dưới mức thu nhập này, FDI hầu như không có ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế.

Nghiên cứu của Borensztein et al (1995 - 1998) sử dụng số liệu của 69 nước đang phát triển giai đoạn 1970 - 1989 để hồi quy. Kết quả cho thấy FDI ròng chỉ có ảnh hưởng nhẹ đến tăng trưởng, nhưng khi sử dụng số nhân của FDI với trình độ của lực


lượng lao động làm biến độc lập thì biến n ày có hsố dương và ý nghĩa thống kê. Ông kết luận, FDI chỉ mang lại tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế khi nước nhận đầu tư có lực lượng lao động đạt đến trình độ nhất định. Dưới mức đó, FDI hầu như không có tác động đến tăng trưởng kinh tế.

Borensztein et al (1995), Hermes và Lensink (2000) lại cho rằng, tốc độ tăng trưởng của các nước đang phát triển phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp nhận và hấp thụ công nghệ mới. Họ cũng đồng ý rằng sự đóng góp chính của FDI là thúc đẩy tiến bộ về công nghệ của nước sở tại. Hermes và Lensink cho rằng, để khai thác tối đa hiệu quả của FDI, nước tiếp nhận đầu tư cần phát triển thị trường tài chính. Hệ thống tài chính cần phát triển đến một trình độ nhất định để huy động tiết kiệm, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư đổi mới công nghệ. Có như vậy, doanh nghiệp trong nước mới tận dụng được công nghệ từ các doanh nghiệp FDI nhiều hơn.

Nghiên cứu của Ramirez (2000) sử dụng số liệu vốn FDI tích luỹ ước lượng đóng góp FDI đến tăng trưởng kinh tế của Mexico gi ai đoạn 1960 - 1995. Ông thấy rằng, vốn FDI tác động tích cực đến xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế thông qua năng suất lao động. Ramirez (2000) đưa ra kết luận, để FDI tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, cần phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực t hì mới có thể tiếp nhận được công nghệ mới và kinh nghiệm quản lý.

Nghiên cứu của Li và Liu (2005) qua khảo sát 88 quốc gia có tiếp nhận FDI (bao gồm cả nước phát triển và đang phát triển) đã chỉ ra rằng, FDI và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Theo các tác giả FDI không những trực tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế, mà còn thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và công nghệ. Một điểm đáng lưu ý trong nghiên cứu này là, nước nhận FDI phải có nguồn nhân lực và công nghệ đạt tới trình độ nhất định. Nếu nước nhận FDI có trình độ nguồn nhân lực và công nghệ thấp hơn nước đầu tư thì sẽ tác động tiêu cực đến nước nhận FDI.

Nghiên cứu của Buckley et al (2002) là một trong rất ít các nghiên cứu cho rằng FDI tác động đến tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với đầu tư trong nước của Trung Quốc. Nghiên cứu đi đến kết luận FDI không có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế bằng các nguồn vốn khác trong nước.

Khi nghiên cứu dòng vốn FDI của Hoa Kỳ đầu tư sang các nước đang phát triển, Nunnenkamp và Spatz (2003) đã đưa ra quan điểm rằng, FDI không có tác động đáng kể nào đến tăng trưởng kinh tế ở các nước tiếp nhận đầu tư, thậm chí FDI còn có tác động tiêu cực. Đặc biệt ở các quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, trình đlực lượng lao động không cao, độ mở cửa nền kinh tế thấp thì càng thu hút nhiều FDI càng ảnh hưởng xấu đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu của


Buckley et al 2002 cũng tương tự kết quả nghiên cứu của Dutt (1997), khi ông kiểm định về hiệu quả của FDI đầu t ư từ các nền kinh tế phương Bắc vào các nền kinh tế phương Nam.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động đến đầu tư và khả năng tích lũy vốn

Trong các lý thuyết kinh tế Tân cổ điển và lý thuyết tăng trưởng mới, tích luỹ vốn đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Sự khan hiếm vốn được giả định là một trở ngại lớn trong quá trình phát triển, mà các nước đang phát triển gặp phải. Vấn đề này phát sinh từ sự khác biệt giữa tiết kiệm và đầu tư. Bởi vì, nước đang phát triển thường có mức thu nhập thấp và mức độ tiết kiệm thấp, do đó, không đáp ứng nhu cầu đầu tư của họ (Reuber 1973; Solow 1956; Rostow 1971; Hirschman 1963; và UNCTAD 1992). Do đó, FDI có thể làm giảm bớt những khó khăn tài chính và có những đóng góp đáng kể cho quá trình tích tụ vốn trong các quốc gia đang phát triển.

Các nghiên cứu thực nghiệm cũng khẳng định giả thuyết rằng FDI có tác động tích cực đến sự hình thành vốn đầu tư. Agrawal (2000) sử dụng số liệu của các nước Nam Á trong giai đoạn từ năm 196 0 và 1996 để phân tích các yếu tố quyết định đến tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tại các nước này. Kết quả cho thấy rằng yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tỷ lệ đầu tư của các nước này là tỷ lệ FDI rò ng/GDP. Cụ thể, tỷ lệ FDI ròng/GDP tăng 1% sẽ mang lại tỷ lệ đầu tư trên GDP tăng 1,81%. Đặc biệt, khi sử dụng biến trễ để kiểm định tác động lâu dài của FDI đối với đầu tư trong nước, ông đã tì m ra kết quả là tỷ lệ FDI ròng/GDP tăng lên 1% sẽ dẫn đến tỷ lệ đầu tư trên GDP tăng hơn 5%. Tuy nhiên, tỷ lệ đầu tư vào các nước Nam Á vẫn còn thấp và nguồn vốn FDI được cho là ít có tác dụng hơn nguồn vốn trong nước.

Giống như Agrawal (2000), Krkoska (2001) cũng tìm thấy FDI có tác động tích cực đến sự hình thành tổng vốn đầu tư trong nước. Krkoska (2001) ước tính tác động của FDI vào tổng vốn cố định bằng cách sử dụng dữ liệu bảng không cân bằng từ 25 nền kinh tế chuyển đổi, giai đoạn 1989 - 2000. Kết quả cho thấy khi FDI tăng 1% sẽ làm tăng 0,7% tổng vốn cố định, trong khi một phần trăm tăng vốn hoá thị trường vốn, kết quả tín dụng trong nước tăng 0,2 phần trăm hoặc ít hơn 0,1 phần trăm, tương ứng, tăng hình thành tổng vốn cố định. Ông kết luận rằng vốn FDI, tín dụng trong nước và thị trường vốn trong nước là tất cả các nguồn tài chính quan trọng để hình thành vốn. Ngoài ra, FDI có tác động đáng kể trong quá trình hình thành vốn của nước chủ nhà hơn là tín dụng tài chính trong nước và thị trường vốn.

Agosin và Maver (2000) đặt câu hỏi liệu FDI vào các nước đang phát triển sẽ thúc đẩy hay kìm hãm sự hình thành nguồn vốn đầu tư trong nước. Họ phát triển một


mô hình lý thuyết đầu tư trong đó có biến vốn FDI và sau đó kiểm định nó với các bảng dữ liệu từ 32 quốc gia của ba khu vực đang phát triển (Châu Phi, Châu Á và Mỹ Latinh). Các số liệu của giai đoạn 1970 - 1996 và hai giai đoạn ngắn là 1976 - 1985 và 1986 - 1999. Kết quả cho thấy rằng ở châu Á, nguồn vốn FDI đã có tác động mạnh mẽ đến đầu tư trong nước. Tuy nhiên, nguồn vốn này lại làm ảnh hưởng tiêu cực tới đầu tư trong nước ở châu Mỹ Latinh trong toàn bộ thời kỳ 1970 - 1996, cũng như trong cả hai giai đoạn ngắn. Khi tỷ lệ FDI/GDP tăng một điểm phần trăm sẽ làm cho tỷ lệ đầu tư trong nước/GDP giảm 0,14 điểm phần trăm (giai đoạn 1970 - 1996) và 1,22 điểm phần trăm (giai đoạn 1976 - 1985).

Razin (2002) sử dụng phương pháp kinh tế lượng để đánh giá sự tác động của FDI đến đầu tư trong nước. Mẫu nghiên cứu của ông bao gồm 64 nước đang phát triển, trong khoảng thời gian 22 năm từ năm 1976 đến 1997. Tác giả thấy rằng, vốn FDI đóng vai trò quan trọng đối với đầu tư trong nước và tăn g sản lượng đầu ra, hơn là các loại vốn khác, chẳng hạn như các khoản vay quốc tế. Cụ thể, tỷ lệ FDI/GDP tăng lên 1% sẽ d ẫn đến tỷ lệ đầu tư trong nước/ GDP tăng 0,94 điểm phần trăm, nếu sử dụng phương pháp hồi quy OLS và 0,68 điểm phần trăm, nếu sử dụng ph ương pháp hồi quy TSLS.

Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại cho rằng vốn FDI không có tác động tích cực đối với tiết kiệm và đầu tư trong nước. Buffie (1993), Feldstein và Horioka (1980), Frankel et al (1986) đã cho rằng vốn FDI có thể không phải là một nguồn vốn quan trọng cho các nước đang phát triển.

1.1.3. Những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển khoa học và công nghệ

Các lý thuyết tăng trưởng đã thừa nhận vai trò ngày càng quan trọng của công nghệ trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các kênh chuyển giao công nghệ và tầm quan trọng của công nghệ đối với sự tăng trưởng đã thu hút một số lượng lớn các nghiên cứu trong vài thập kỷ qua. FDI không chỉ được coi là một trong những kênh trực tiếp, quan trọng nhất và rẻ nhất trong việc chuyển giao công nghệ, mà còn là một kênh chuyển giao gián tiếp, thông qua tác động lan toả từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. (Hirschman, 1963; Nelson và Phelps, 1966; Jovanovic và Rob, 1989; Segerstrom, 1991; Blomstrom và Wang, 1989). Điều này là do các công ty đa quốc gia có lợi thế trong việc nắm bắt các công nghệ tiên tiến, bí quyết công nghệ và kinh nghiệm quản lý mà chưa được phát triển ở các nước đang phát triển (Blomstrom và Persson, 1983).

Cho đến nay, rất nhiều công trình nghiên cứu đã thực hiện nhằm đánh giá tác

động chuyển giao công nghệ và tác động lan toả của FDI. Hầu hết trong số họ đều dựa

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/09/2022