Như vậy, các cơ sở đào tạo mới chỉ đào tạo khoảng 70 nhóm nghề phổ biến, trong đó chỉ tập trung vào một số nhóm nghề nêu trên, trong khi đó các doanh nghiệp kinh tế hiện nay lại cần sử dụng lao động với trên 300 nghề khác nhau. Điều đó cho thấy sự hạn chế về số nghề đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề. Hiện nay nhiều ngành nghề thuộc nền kinh tế truyền thống với kỹ thuật và công nghề lạc hậu dần dần mất đi, thay thế bằng các ngành, nghề mới hiện đại, đặc biệt xuất hiện ngày càng nhiều các ngành nghề sử dụng nhiều tri thức rõ ràng tình hình đào tạo nghề chưa đáp ứng được nhu cầu về lao động trên thị trường lao động Việt Nam hiện nay.
Theo ngành nghề đào tạo, qua thống kê ở các trường dạy nghề công lập cho thấy sự phân bố của các cơ sở này như sau:
35,67% | |
Giao thông vận tải: | 21,02% |
Nông - Lâm - Ngư: | 10,19% |
Kinh tế - Dịch vụ: | 9,55% |
Xây dựng: | 17,83% |
Văn hoá - Bưu điện: | 5,73% |
Có thể bạn quan tâm!
- Hiện Trạng Về Hệ Thống Đào Tạo Công Nhân Kỹ Thuật Ở Việt Nam
- Số Lượng Học Sinh Đào Tạo Chính Quy Từ 1986 Đến 2004
- Cơ Cấu Đào Tạo Nghề Chia Theo Vùng Lãnh Thổ, Khu Vực Kinh
- Bối Cảnh Mới Của Nền Kinh Tế Việt Nam Và Những Yêu Cầu Đặt Ra Đối Với Hoạt Động Đào Tạo Công Nhân Kỹ Thuật
- Định Hướng Để Phát Triển Đào Tạo Công Nhân Kỹ Thuật
- Đào tạo công nhân kỹ thuật theo yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá - 14
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
Nhìn chung, một số trường nghề còn chưa theo kịp nhu cầu của thị trường lao động. Xu hướng đào tạo chạy theo mong muốn ngắn hạn của người lao động, chưa có chính sách và giải pháp phân luồng hữu hiệu dẫn đến hậu quả là đào tạo chưa gắn với nhu cầu của các khu vực khác nhau của nền kinh tế và các ngành, mất cân đối giữa các ngành nghề đào tạo. Số lao động có nghề thuộc lĩnh vực sản xuất, chế biến nông lâm thuỷ sản đang rất thiếu trong khi nhu cầu ngày càng bức xúc đối với khu vực nông thôn. Ở các vùng kinh tế chậm phát triển, đặc biệt là vùng núi, vùng ven biển và hải đảo, vùng sâu đang có nhu cầu ngày càng
nhiều về số lao động được đào tạo ở các nghề mới thuộc lĩnh vực chế biến, khai thác, dịch vụ, quản lý…
+ Cơ cấu đào tạo theo trình độ nghề: Các nghề đào tạo ghi trong danh mục nghề đào tạo có thể được đào tạo ban đầu ở các trình độ hay các mức độ nghề khác nhau, đó là sự phân hoá mục tiêu đào tạo nghề theo chiều sâu. Hiện nay mạng lưới các trường dạy nghề phát triển thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành với 3 cấp trình độ
Công nhân kỹ thuật lành nghề: Trình độ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ được đào tạo nghề theo chuẩn, thể hiện ở mức độ mục tiêu hình thành người công nhân với khả năng làm được, nhân viên nghiệp vụ với nhân cách phát triển toàn diện, hài hoà, chính quy, được trang bị kiến thức và kỹ năng nghề diện rộng hoặc chuyên sâu, có khả năng đảm nhận những công việc phức tạp. Đó là trình độ nghề vẫn thường được gọi là bậc 3/7 và tương đương.
Lao động được đào tạo ở cấp trình độ này chiếm tỉ trọng lớn chủ yếu để phục vụ nhu cầu sử dụng của các khu chế xuất, những dây chuyền sản xuất công nghệ cao phục vụ nhu cầu xuất khẩu lao động và chuyên gia, dịch vụ sản xuất sản phẩm cho xuất khẩu áp dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động mà Việt Nam có ưu thế cạnh tranh (dệt may, giày dép, chế biến thuỷ sản, lắp giáp điện tử, ô tô...). Cấp trình độ này hiện nay còn thấp so với nhu cầu ngày càng cao của thị trường sức lao động nên trong những năm tới chúng ta cần mở rộng quy mô đào tạo cho các ngành nghề, nhất là các ngành nghề áp dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động các ngành sản xuất các sản phẩm xuất khẩu mà Việt Nam có ưu thế cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế (dệt may, giày dép, chế biến thuỷ sản, lắp giáp điện tử, ô tô, xe máy...).
Công nhân bán lành nghề: là trình độ được đào tạo nghề dưới chuẩn, được trang bị một số kiến thức và kỹ năng nghề nhất định thể hiện ở mức độ mục tiêu hình thành người công nhân với khả năng làm được từ một vài công việc của nghề tới làm được tương đối nhiều công việc của nghề nhưng chưa đạt chuẩn, thông qua đào tạo ban đầu ngắn hạn không chính quy, thường thiên về thực hành tay nghề.
Tổ chức đào tạo công nhân cấp trình độ này nhằm cung cấp lao động cho ngành nghề giản đơn, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ, phát triển kinh tế trang trại, kinh tế gia đình, các làng nghề và tăng cơ hội có việc làm cho người lao động. Tỷ trọng lao động được đào tạo ở cấp trình độ này sẽ giảm dần trong kế hoạch đào tạo song vẫn chiếm phần lớn tổng số lao động hàng năm.
Công nhân trình độ cao (lành nghề cao): là đội ngũ công nhân được trang bị kỹ năng nghề nghiệp thành thạo và kiến thức chuyên môn kỹ thuật cần thiết dựa trên học vấn trung học phổ thông hoặc trung học chuyên nghiệp để có khả năng vận hành các thiết bị hiện đại và xử lý được các tình huống phức tạp, đa dạng trong các dây chuyền sản xuất tự động, công nghệ hiện đại.
Đào tạo ở cấp trình độ này nhằm để phục vụ theo yêu cầu phát triển của công nghệ sản xuất, theo xu thế quốc tế để hội nhập và cạnh tranh trên thị trường lao động trong và ngoài nước, mà ở đó đòi hỏi người lao động phải có trình độ tay nghề cao cùng với trình độ chuyên môn kỹ thuật ở bậc trung cấp và cao đẳng. Vì vậy hệ thống đào tạo nghề cần sớm tổ chức, tập trung đào tạo cho phù hợp với yêu cầu áp dụng công nghệ cao, cung cấp lao động cho các ngành kinh tế mũi nhọn, vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu công nghệ cao... tạo nền tảng tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.
Như vậy, hệ thống đào tạo nghề với 3 cấp trình độ cho phép nền kinh tế tiếp nhận từ lao động ở trình độ văn hoá còn thấp, lao động dôi dư, lao động chưa có nghề... đến những học sinh có trình độ trung học cơ sở và cũng như những lao động có trình độ cao. Đây là một hệ thống mở, còn thay đổi theo thời gian. Nó càng đa dạng, phong phú và mềm dẻo thì đào tạo nghề càng linh hoạt và đáp ứng được nhu cầu. Trình độ bán lành nghề chủ yếu do các cơ sở dạy nghề ngắn hạn thực hiện. Trình độ lành nghề và lành nghề cao do các trường dạy nghề, các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng kỹ thuật có chức năng và nhiện vụ dạy nghề thực hiện.
2.3. Đánh giá chung về hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật ở Việt Nam
2.3.1. Thành công
Có thể nói rằng hệ thống đào tạo nghề Việt Nam đã trải qua những bước thăng trầm khác nhau nhưng hiện nay đang được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm khiến cho hệ thống đào tạo nghề đã có những bước khởi sắc và ngày càng hoàn thiện. Chúng ta đã hình thành được mạng lưới các trường dạy nghề đa dạng, phong phú và đang phát triển mạnh góp phần đào tạo đội ngũ lao động Việt Nam đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Quy mô đào tạo của hệ thống dạy nghề ngày càng tăng nhanh; số lượng các trường dạy nghề, loại hình đào tạo, cơ cấu đào tạo ngày càng hoàn thiện cũng như số lượng người học ngày càng gia tăng khẳng định vai trò của việc đào tạo nghề đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Chất lượng đào tạo nghề cũng từng bước được nâng lên rõ rệt. Tỉ lệ người ra trường có việc làm và khả năng tự tạo việc làm ngày càng cao. Đội ngũ giáo viên ở các trường ngày càng được hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng, cơ sở
vật chất được đầu tư với quy mô ngày càng lớn, công tác quản lý nhà nước được củng cố và tăng cường.
2.3.2. Những vấn đề đặt ra
Tuy đã thu được nhiều thành tựu nhưng hệ thống đào tạo nghề Việt Nam hiện nay vẫn còn một số vấn đề cần phải khắc phục và hoàn thiện.
Thứ nhất, đó là cơ cấu hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, cả về chất lượng và số lượng của đội ngũ công nhân. Chất lượng đào tạo nghề trong những năm qua tuy có được nâng lên một bước nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao đối với lao động kỹ thuật trong sản xuất. Yếu kém này là do các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo nghề tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Tình trạng thiếu thiết bị dạy nghề cả về số lượng và chất lượng đang là tình trạng chung của nhiều cơ sở dạy nghề, nhất là cơ sở dạy nghề của các địa phương:
+ Bình quân, tổng diện tích mặt bằng của các trường dạy nghề là hơn 24,4 nghìn m2. Diện tích mặt bằng của các trường Trung ương cao gấp 4 lần so với các trường địa phương. Diện tích mặt bằng của các trường công lập cao gấp 20 lần các trường ngoài công lập. Diện tích xây dựng cho các trường dạy nghề là rất thấp, đặc biệt là diện tích phòng học/1 học sinh. Đáng chú ý nhất là diện tích phòng học/1 học sinh của các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên và vùng Tây Bắc là quá hẹp (1,0 và 1,2m2). Chất lượng phòng học, nhà xưởng của các trường dạy nghề nhìn chung đã được cải thiện tuy nhiên vẫn còn khoảng 31% số phòng học và 50,7% số xưởng thực hành là nhà cấp 4, nhà tạm.
+ Về trang thiết bị giảng dạy và thực tập, qua khảo sát cho thấy khoảng 50% số trang thiết bị được sản xuất trước 1995, trong đó có 6% số thiết bị được sản xuất trước 1975 và đa số chỉ đạt ở mức công nghệ trung bình (64,3%), chỉ
khoảng trên 20% là hiện đại. Có một số nghề mà trang thiết bị sử dụng cho thực hành nghề rất lạc hậu như nghề in, vận hành thiết bị hoá, luyện kim, sửa chữa thiết bị chính xác...
+ Chương trình đào tạo phù hợp, hiện đại là yêu cầu không thể thiếu đối với hoạt động đào tạo nghề. Chương trình đào tạo phù hợp được cấp có thẩm quyền phê duyệt là một trong các yếu tố quan trọng, quyết định chất lượng đào tạo. Theo thống kê, trong tổng số 142 nghề mà các trường dạy nghề trong nước hiện đang đào tạo thì có 13 nghề trong đó 93,0% số trường dạy nghề có chương trình đào tạo. Ngược lại có 10 nghề được đào tạo ở nhiều trường không có chương trình đào tạo. Trong số này, nghề có tỉ lệ trường không có chương trình lớn là: gò (gần 90%), vận hành quản lý đường dây (20%), bê tông cốt thép (18,75%), các loại nghề: khảo sát đại hình, rèn, lắp đạt cầu, vận hành máy xúc, lái cẩu... Đối với các trường nghề có chương trình đào tạo thì đa số chương trình do cấp có thẩm quyền ban hành nhưng cũng có trường có một số nghề mặc dù có chương trình nhưng do nhà trường tự biên soạn, chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt (chiếm 18,3%).
+ Hiện nay cả nước có khoảng 18.000 giáo viên dạy nghề, trong dó có
7.500 giáo viên trong các trường dạy nghề. Qua số liệu điều tra bình quân trong một cơ sở dạy nghề có 58 cán bộ, giáo viên, riêng ở các trường dạy nghề có khoảng 51 người. Nếu tính bình quân trên 1.000 học sinh ở các trường dạy nghề công lập có 86 cán bộ, giáo viên và ngoài công lập có 78 người. Ở một số trường ở Tây Bắc, miền Trung, Tây Nguyên hoặc đồng bằng sông Cửu Long, số cán bộ giáo viên bình quân trên một cơ sở rất thấp như ở Duyên hải miền Trung chỉ có 25 người, Tây nguyên 35 người… Tính chung lại số giáo viên, cán bộ trong các trường dạy nghề chỉ bằng 48,57% so với trường Cao đẳng, Trung học có dạy nghề và gấp 2,13 lần so với số cán bộ, giáo viên của một trung tâm dạy nghề.
Trong số cán bộ, giáo viên dạy nghề thì số giáo viên chiếm 55,32%, như vậy, bình quân mỗi trường dạy nghề có từ 30 đến 40 giáo viên. Số giáo viên trong các trường dạy nghề còn rất thiếu về số lượng, còn xa chúng ta mới đạt chuẩn 1 giáo viên/15 học sinh. Về chất lượng, đa số giáo viên trong các trường dạy nghề tuổi đời còn trẻ và có thâm niên công tác từ 10 năm trở xuống (chiếm gần 40%), trong đó có đến 23,94% số giáo viên có thâm niên dưới 5 năm.
Qui mô đào tạo, nhất là quy mô đào tạo nghề dài hạn còn nhỏ so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội: Mặc dù qui mô tuyển sinh đào tạo nghề, nhất là quy mô tuyển sinh đào tạo nghề dài hạn trong những năm gần đây đã tăng với tốc độ khá nhanh, nhưng năm 2004 tuyển sinh đào tạo nghề dài hạn cũng chỉ phấn đấu đạt được 198.000 học sinh. Trong lúc đó nhu cầu lao động qua đào tạo nghề hiện nay rất lớn để cung cấp cho các khu công nghiệp, xuất khẩu lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và chuyển dịch cơ cấu ngành nghề nông nghiệp. Qua các hội chợ việc làm ở các địa phương cho thấy nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào tạo nghề dài hạn khá lớn nhưng số người đăng ký xin việc lại ít. Điều đó cho thấy cung về nhân lực qua đào tạo nghề dài hạn vẫn còn chưa đáp ứng được cầu của thị trường lao động.
Mạng lưới cơ sở dạy nghề tuy đã được sắp xếp nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo nghề của các vùng nhất là khu vực nông thôn: Mạng lưới trường dạy nghề trong những năm qua phát triển nhanh, nhưng đến nay số lượng trường dạy nghề cũng chỉ mới đạt được 2/3 số trường dạy nghề vào thời điểm cao nhất (năm 2004 có 226 trường dạy nghề trong khi năm 1980 có 336 trường dạy nghề). Mặt khác nhiều trường dạy nghề đã được thành lập trong những năm gần đây nhưng lại đang trong giai đoạn xây dựng do thiếu vốn. Nhiều khu công nghiệp khi hình thành chưa chú ý đến việc thành lập các trường dạy nghề để cung cấp nguồn nhân lực cho khu vực. Việc thực hiện mục tiêu đến 2010 mỗi
huyện có ít nhất một trung tâm dạy nghề là rất khó khăn vì trong số hơn 600 quận, huyện trong cả nước đến nay mới có khoảng 100 quận, huyện có trung tâm dạy nghề. Số trường dạy nghề ngoài công lập tuy có phát triển nhưng vẫn chiếm một tỉ lệ thấp (11%).
Có lẽ nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế của hệ thống đào tạo nghề là do:
+ Yếu tố nhận thức và tâm lý xã hội: vì người Việt Nam nói chung đều có nguyện vọng muốn học để có bằng cấp, không thích làm "thợ" mà thích làm "thầy", làm "cán bộ" để có biên chế và địa vị trong xã hội. Mức thang đo giá trị con người đang được xã hội đo bằng cấp. Trong xã hội nhiều người "có chữ", "có học", có bằng cấp cao được coi trọng hơn mặc dù nhiều khi công việc đang làm không liên quan gì đến bằng bằng cấp, chuyên môn nghề nghiệp được đào tạo. Thực tiễn đó nảy sinh tâm lý bằng mọi giá vào được đại học để có bằng đại học. Một học sinh vào được đại học là cả họ hàng, làng xóm liên hoan, chúc tụng còn những người lao động có tay nghề cao, có bàn tay vàng, làm việc có hiệu quả cao nhưng không có bằng Đại học ít khi được đề cao trong xã hội. Xã hội, gia đình và người học chưa nhận thức đầy đủ vai trò của nghề nghiệp đối với sự phát triển của cá nhân và sự hưng thịnh của đất nước. Vì vậy, hệ thống đào tạo nghề từ lâu chỉ chủ yếu tiếp nhận những học sinh sau khi đã thi trượt cao đẳng, đại học.
+ Thiếu tính liên thông trong đào tạo: xu hướng chung của các nước trên thế giới là xây dựng xã hội hoá học tập và tạo điều kiện cho mọi người học tập suốt đời bằng chính sách liên thông trong đào tạo. Nhưng ở nước ta chưa có chính sách liên thông trong đào tạo, nhánh phân luồng đi vào nghề nghiệp chưa có sự liên thông về nội dung chương trình, hình thức đào tạo để người học có