Bối Cảnh Mới Của Nền Kinh Tế Việt Nam Và Những Yêu Cầu Đặt Ra Đối Với Hoạt Động Đào Tạo Công Nhân Kỹ Thuật


điều kiện học tập suốt đời. Thức trạng đó đã dẫn đến một số bất cập nảy sinh trong quá trình đào tạo như đã vào học nghề là ít có cơ hội học lên ở bậc học cao hơn. Muốn học nghề khác hoặc học tiếp các trình độ khác phải quay lại học từ đầu. Những kiến thức và kỹ năng đã được học ở nghề khác hoăc ở bậc học dưới không được tính mà vẫn phải học lại dẫn đến sự lãng phí cho cá nhân người học, cho xã hội và tính kém hấp dẫn của dạy nghề.

+ Vấn đề tiền lương và việc làm của người lao động đã qua đào tạo nghề: Như chúng ta đã biết đa số những người học nghề là những người có điều kiện kinh tế khó khăn, mong muốn của họ là sau khi học nghề sẽ kiếm được việc làm và tự tạo được việc làm. Qua thực tế cho thấy những trường dạy nghề, cơ sở dạy nghề có tỷ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp có việc làm cao thì có nhiều học sinh xin vào học nghề như các trường bưu chính viễn thông, điện lực, may mặc... Tỷ lệ học sinh có việc làm sau khi tốt nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng yếu tố cơ bản là kế hoạch đào tạo nghề của các cơ sở dạy nghề phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường lao động tức là nhà trường đào tạo những nghề và với số lượng mà nhu cầu thị trường lao động cần chứ không đào tạo các nghề mà nhà trường có khả năng đào tạo. Hiện nay giữa đào tạo và sử dụng vẫn còn chưa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cung và cầu không gặp nhau. Kết quả tất yếu của tình trạng đó là có nghề sẽ thiếu và có nghề sẽ thừa so với nhu cầu của thị trường lao động làm co số học sinh học những nghề vượt cầu của thị trường lao động sẽ khó tìm được việc làm.

+ Chính sách khuyến khích học nghề của nhà nước ta hiện nay còn yếu và thiếu: cho đến nay chính sách khuyến khích cho học sinh học nghề nằm trong chính sách chung đối với học sinh - sinh viên, nhưng trong chính sách chung đó lại có sự phân biệt đối xử với học sinh học nghề. Theo quy định tại Quyết định 1121/1997/QĐ-TTg ngày 22/12/1997 về học bổng và trợ cấp đối với học sinh,


sinh viên đối với các trường đào tạo công lập và Thông tư Liên tịch số 53/1998/TTLT- Bộ Giáo dục và đào tạo - Bộ Tài chính - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ngày 25/ 8/1998 thì mức học bổng khuyến khích học tập các loại khá, giỏi, xuất sắc đối với học sinh dạy nghề đều thấp hơn so với mức học bổng loại tương ứng của học sinh sinh viên các khối trường khác.

Hiện nay có những nghề đào tạo rất khó tuyển sinh, đó là những nghề làm việc trong điều kiện lao động đặc biệt nặng nhọc, nguy hiểm và độc hại, như nghề khai thác hầm lò, nghề đúc.v.v… Đối với những nghề này cần có chính sách riêng để thu hút người học.

Người học nghề sau khi tốt nghiệp sẽ đi vào thị trường lao động theo hai hướng: Hướng thứ nhất là tìm việc ở các cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ; hướng thứ hai là sử dụng các kiến thức, kỹ năng đã học trong trường để tự tạo việc làm trước hết cho bản thân mình và cho nhnững người khác. Những người đi theo hướng thứ hai thường gặp khó khăn về vốn để mở cơ sở sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, đối với những người này cần có chính sách ưu đãi về vay vốn.

Cơ chế, chính sách của Nhà nước về dạy nghề chưa tạo được động lực đủ mạnh cho các cơ sở dạy nghề, đội ngũ giáo viên dạy nghề và người học nghề. Bên cạnh đó là mức tăng đầu tư cho dạy nghề không gắn với mức tăng chỉ tiêu đào tạo nghề. Mức kinh phí cho dạy nghề dài hạn tuy đã được tăng lên, nhưng cũng chỉ mới đạt bình quân khoảng 3,2 triệu/học sinh/năm (bằng 74% mức quy định năm 1998). Một nguyên nhân nữa là quan hệ giữa các cơ sở dạy nghề và các doanh nghiệp sử dụng lao động qua đào tạo nghề chưa được chặt chẽ, nhiều doanh nghiệp và người sử dụng lao động chưa thấy được trách nhiệm và lợi ích của mình trong công tác đào tạo nghề.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Tóm lại, hệ thống đào tạo nghề nước ta hiện nay đang được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Đầu tư cho đào tạo nghề ngày càng nhiều và có hiệu quả. Nhận thức của người dân về nghề nghiệp ngày càng tích cực; chất lượng, số lượng đào tạo nghề ngày càng tăng, chúng ta lại có nhiều những cơ hội để phát triển, hội nhập và hoàn thiện. Nhưng bên cạnh đó chúng ta đang gặp không ít các khó khăn như tâm lý phân biệt công nhân và cử nhân đại học, đầu tư vốn ít, cả số lượng và chất lượng giáo viên dạy nghề đều chưa được đáp ứng, cơ sở vật chất còn lạc hậu… Vì thế trong những năm tới chúng ta cần phải chú trọng tập trung vào công tác đào tạo nghề để phát triển và hoàn thiện số lượng và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam.


Đào tạo công nhân kỹ thuật theo yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá - 12

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ


3.1. Bối cảnh mới của nền kinh tế Việt Nam và những yêu cầu đặt ra đối với hoạt động đào tạo công nhân kỹ thuật

Việt Nam bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển với qui mô rộng, trình độ ngày càng cao tạo tiền đề cho việc hình thành nền kinh tế tri thức. Đồng thời, cùng với thời kỳ đổi mới, kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh đó, lập đội ngũ công nhân kỹ thuật càng có vai trò hết sức to lớn.

Trong gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới từ 1986 đến nay, Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Tính bình quân 5 năm 2001 - 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt gần 7,5%, cao hơn 0,6% so với 5 năm trước, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp đạt 3,6%; công nghiệp và xây dựng đạt 10,3%; các ngành dịch vụ đạt 7,0%. Bình quân 10 năm từ 1996 đến 2005 nền kinh tế tăng trưởng khoảng 7,2%, năm 2005 dự kiến GDP là 815 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người là 9,8 triệu đồng (tương đương với 600 USD). Cùng với tăng trưởng kinh tế chúng ta đã duy trì được sự ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm ổn định chính, xã hội, quốc phòng an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành. Chúng ta đã cải cách thể chế kinh tế, từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn lao động và chất lượng lao động, khoa học công nghệ... Khu vực kinh tế tư nhân phát triển nhanh chóng sau khi luật doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/1/2000, tạo việc làm cho hơn 1,75 triệu người.

Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân trong 5 năm khoảng 5,4% trong đó ngư nghiệp tăng 10,7%; lâm nghiệp tăng 1,3%; nông


nghiệp tăng 4,0%. Giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2000 - 2005 tăng bình quân 15,7%/năm, cao hơn 1,6% so với 13,9% giai đoạn 1996 - 2000. Các ngành dịch vụ có bước chuyển biến tích cực theo hướng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư. Đã bắt đầu quá trình bình đẳng giá dịch vụ giữa người nước ngoài và người trong nước. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng bình quân hàng năm khoảng 7,6%. Giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ tăng bình quân 7,0% trong giai đoạn 2000 - 2005.

Cùng với tăng trưởng kinh tế quỹ tiêu dùng và quỹ tích luỹ có nhiều cải thiện theo hướng tăng nhanh tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với tổng sản phẩm trong nước năm 2005 đạt khoảng 29,4%, trong đó tích luỹ từ khu vực dân cư và doanh nghiệp chiếm khoảng 23,4%, tích luỹ từ khu vực Nhà nước chiếm khoảng 6%.

Kinh tế vĩ mô duy trì ổn định trong nhiều năm là một thành tựu rất quan trọng. Sau một giai đoạn dài lạm phát phi mã không kiềm chế được ở đầu thập kỷ 1980 ccủa thế kỷ XX, lạm phát giảm từ mức gần 800% năm 1986 xuống một con số vào đầu những năm 1990 và giữ ở mức tương đối thấp cho đến nay; thâm hụt ngân sách luôn ở mức dưới 5% GDP.

Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, bình quân đạt tốc độ trên 25%/năm, một mức tăng cao hơn hẳn nhiều nước đang phát triển. Mức độ mở cửa thương mại khá cao so với thế giới: Kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP khoảng 120%. Số doanh nghiệp đăng ký trực tiếp xuất nhập khẩu đã tăng lên từ 3500 năm 1998 lên 2000 năm 2002. Giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp tăng từ 10 tỷ USD năm 2000 lên 22,4 tỷ USD năm 2005 và chiếm 73% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu phong phú hơn, đặc biệt một số sản phẩm cơ khí đòi hỏi công nghệ cao như điện tử, xe máy, tàu thuỷ... đã có chỗ đứng ở một


vài thị trường. Thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, người tiêu dùng được tiếp cận các hàng hoá và dịch vụ với chủng loại đa dạng và chất lượng tốt hơn

Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tương đối rõ nét. Trong giai đoạn 1991 - 2000, nông nghiệp giảm mạnh từ 40% xuống còn 23% GDP, công nghiệp tăng nhanh nhất từ 24% lên 38%. Công nghiệp chế tạo tăng trung bình 10%/năm trong giai đoạn 1999 - 2002, tổng sản lượng công nghiệp cũng tăng nhanh với mức 14%/năm trong cùng giai đoạn, nhiều ngành mới, sản phẩm mới xuất hiện. Đến 2005 tỉ trọng giá trị nông - lâm - ngư nghiệp còn khoảng 19%, công nghiệp khoảng 42%, dịch vụ khoảng 39%.

Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đang có những dấu hiệu cho thấy việc tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao là rất khó khăn. Tốc độ tăng xuất khảu trong năm 2001 - 2002 chỉ còn khoảng hơn 11% so với hơn 30% những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Đầu tư nước ngoài cam kết và thực hiện chưa khôi phục được mức tăng trong những năm cuối 80 đầu 90: vốn đăng ký bình quân năm còn khoảng 2 tỷ USD năm 2001 - 2002 so với 7,2 tỷ trong các năm 1995 - 1997, tuy vốn đầu tư thực hiện giảm không đáng kể: 2,3 tỷ so với 2,6 tỷ trong thời kỳ so sánh trên; tính theo đầu người năm 2002 là 17$ so với 29$ năm 1997, tuy vốn đầu tư thực hiện giảm không đáng kể (2,3 tỷ) so với (2,6 tỷ) trong thời kỳ so sánh.

Hơn nữa, nền kinh tế chưa tận dụng hết lợi thế cạnh tranh về lao động, vốn đầu tư đang hướng vào những dự án lớn, hiệu quả không cao. Yêu cầu về vốn đầu tư để tạo ra một đơn vị tăng trưởng (hệ số ICOR) đã tăng nhanh trong những năm gần đây, từ 3,5 - 4 vào cuối những năm 90 lên hơn 5,9 vào năm 2001. Chủ yếu đó là những đầu tư của khu vực Nhà nước và một số doanh nghiệp có vốn


đàu tư nước ngoài vào những dự án chậm thu hồi vốn, không bù đắp được chi phí thực tế bỏ ra hoặc tạo được ít việc làm. Hạ tầng yếu kém với chất lượng dịch vụ thấp và kém đa dạng là điểm yếu quan trọng gây cản trở cho phát triển kinh tế.

Trong bối cảnh đó, thực hiện đường lối phát triển kinh tế dựa vào nội lực và tranh thủ nguồn lực bên ngoài, tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam vào kinh tế khu vực và thế giới đang được thực hiện với tốc độ ngày càng tăng, ngày càng sâu sắc và toàn diện, trong đó có việc thực thi cam kết với các nước ASEAN (ví dụ như Hiệp định AFTA và AIA, AICO) và chuẩn bị tham gia WTO. Việc thực hiện cam kết này vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra thách thức cho nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là cần xác định những điều chỉnh chính sách phù hợp để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức.

Ngày nay toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thế giới. Thời đại toàn cầu hoá đã mở ra nhiều cơ hội tốt đẹp cho hàng tỷ người ở các nước trên thế giới. Chính thương mại thế giới và đầu tư quốc tế trực tiếp ngày càng tăng lên, kỹ thuật mới, thiết bị và mạng thông tin liên lạc ngày càng phát triển đã tiếp thêm sức sống cho sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của loài người.

Không còn nghi ngờ gì nữa, toàn cầu hoá đã tạo ra cơ may lớn cho sự tiến bộ của loài người, cho sự tăng trưởng kinh tế. Toàn cầu hoá hiện nay do sự mở cửa, thị trường thúc đẩy vì thế trong tiến trình toàn cầu hoá thị trường chiếm địa vị chủ đạo ai chiếm được vị trí trong cạnh tranh thị trường người đó sẽ chiếm được quyền chủ động trong tiến trình toàn cầu hoá. Có thể nói vấn đề cạnh tranh có tính chất toàn thế giới, quan hệ tới địa vị và lợi ích của mỗi quốc gia trong tiến trình toàn cầu hoá. Chúng ta biết rằng tự do hoá thương mại có thể trở thành


một bước tiến tới xây dựng thị trường có tính chất cạnh tranh, song nó không thể trở thành cái đảm bảo cho thị trường có tính chất cạnh tranh. Thêm đó trong khi đảm bảo năng suất, thị trường có tính chất cạnh tranh vẫn không thể đảm bảo thực hiện được bình đẳng do đó các nước không thế cùng hưởng một cách bình đẳng lợi ích to lớn do toàn cầu hoá tạo ra. Trong khi giữ vững thị trường và lợi thế cạnh tranh còn phải chú ý tới nhân lực và tài nguyên, môi trường nhằm đảm bảo toàn cầu hoá có lợi cho nhân dân chứ không phải chỉ chạy theo xu thế.

Như thế có thể nói toàn cầu hoá kinh tế là xu hướng không thể đảo ngược của kinh tế hiện đại. Toàn cầu hoá kinh tế ảnh hưởng không chỉ đến kinh tế của một nước mà còn ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội khác trong đó có lĩnh vực đào tạo. Để hội nhập với kinh tế thế giới, chúng ta cần phải bắn nhịp chung với các tri thức của nhân loại. Sự hợp tác trong đào tạo đa phương và song phương ngày càng phát triển, điều này đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới hệ thống đào tạo trong đó có việc đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên đồng thời phải đầu tư trang thiết bị phù hợp... để đào tạo ra những công nhân kỹ thuật vừa nắm vững lý thuyết vừa có kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp và có khả năng thích ứng với sự thay đổi của công nghệ. Nâng cao chất lượng đào tạo là yêu cầu sống còn đối với các cơ sở đào tạo để bắt kịp trình độ đào tạo của các nước phát triển.

Để có đội ngũ lao động chất lượng cao, phải dựa trên cơ sở nâng cao trình độ dân trí đồng thời phải phát triển giáo dục nghề nghiệp, giáo dục cao đẳng đại học và sau đại học. Ở nước ta vấn đề nâng cao dân trí đã đạt được tỉ lệ khá cao so với thế giới, song tỉ lệ lao động qua đào tạo còn thấp đặc biệt là công nhân kỹ thuật. So sánh với quốc tế, mặc dù Việt Nam vẫn còn lợi thế về giá lao động thấp song lợi thế này sẽ mất dần về lâu dài. Muốn chiếm ưu thế trong cạnh tranh thì không còn con đường nào khác là tập trung đào tạo một đội ngũ lao động kỹ

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 23/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí