1.1.3.2 Các loại hình du lịch
Một số loại hình du lịch thường được nhắc đến ở nước ta là:
- Du lịch cảnh quan sinh thái:
Du lịch cảnh quan sinh thái là hình thức du lịch thiên nhiên với mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi trường có tác động tích cực đến việc bảo vệ môi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại các lợi ích về tài chính cho cộng đồng tại địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn.
Ví dụ: du lịch tham quan vườn Quốc gia Côn Đảo tại tỉnh Bà Rịa–Vũng
Tàu.
- Du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần:
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá thực trạng hoạt động du lịch nhằm đề xuất các giải pháp góp phần phát triển ngành du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu - 1
- Đánh giá thực trạng hoạt động du lịch nhằm đề xuất các giải pháp góp phần phát triển ngành du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu - 2
- Giới Thiệu Tổng Quan Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
- Khách Sạn Và Các Doanh Nghiệp Có Chức Năng Du Lịch
- Bảng Số Liệu Khách Du Lịch Nội Địa Đến Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
Loại hình du lịch này xuất phát từ nhu cầu giải tỏa bớt căng thẳng sau
những giờ phút lao động vất vả để phục hồi sức khỏe. Ví dụ: du lịch tắm biển tại Bà Rịa–Vũng Tàu.
- Du lịch văn hóa:
Là loại du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu cảm nhận văn hóa của khách du lịch. Du khách đến tham quan tìm hiểu nền văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán của một vùng đất, một quốc gia mà nơi đó có nét văn hóa, tiến trình lịch sử là một điều hết sức mới lại đối với họ hoặc tham gia các cuộc thi hoa hậu, âm nhạc.
Ví dụ: Tham quan chùa chiền, các công trình kiến trúc, các di tích lịch sử, tham gia các lễ hội văn hóa, các cuộc thi hoa hậu, âm nhạc,.
- Du lịch thể thao:
Đó là chuyến du lịch gắn liền với mục đích tham gia một môn thể thao nào đó như lướt sóng, leo núi,... hoặc tham gia các lễ hội thể thao, một kỳ thế vận hội với tư cách là vận động viên, nhà tổ chức, huấn luyện viên, cổ động viên...
- Du lịch chữa bệnh:
Do nhu cầu giải tỏa bớt căng thẳng sau những giờ phút lao động vất vả do thể trạng sức khỏe, đòi hỏi một phương pháp chữa bệnh đặc biệt gắn liền với điều kiện địa giới, khí hậu, môi trường ... loại hình du lịch nghỉ ngơi chữa bệnh và cả điều trị được thiết lập nhằm phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu.
Ví dụ: loại hình du lịch tắm suối khoáng nóng tại tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu, tắm bùn ở Nha Trang.
- Du lịch MICE:
MICE là loại hình du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen thưởng của các công ty cho nhân viên, đối tác. MICE - viết tắt của Meeting (hội họp), Incentive (khen thưởng), Convention (hội nghị, hội thảo) và Exhibition (triển lãm). Tên đầy đủ tiếng Anh là Meeting Incentive Conference Event. Bởi vậy các đoàn khách MICE thường rất đông (vài trăm khách) và đặc biệt mức chi tiêu cao hơn khách đi tour bình thường (do Ban tổ chức các hội nghị quốc tế bao giờ cũng đặt phòng cho khách ở khách sạn 4 - 5 sao, dịch vụ cao, tour sau hội nghị phải thiết kế chuyên biệt theo yêu cầu…). MICE hiện là loại hình du lịch mang lại nguồn thu rất lớn cho ngành du lịch ở các nước.
Đối với Việt Nam loại hình du lịch này đã được các công ty trong ngành du lịch khai thác từ nhiều năm nay, bước đầu đã có kết quả khả quan. Khai thác thị trường MICE là một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển ngành du lịch Việt Nam.
1.2 Các tác động về kinh tế - xã hội của hoạt động du lịch
Để phân tích một cách đầy đủ về tác động kinh tế - xã hội của hoạt động du lịch, cần thấy rõ những nét đặc trưng của hoạt động du lịch. Đó là:
- Nhu cầu tiêu dùng du lịch là nhu cầu đặc biệt.
- Nhu cầu hiểu biết kho tàng văn hóa, lịch sử, nhu cầu vãn cảnh thiên nhiên, bơi và tắm biển, hồ, sông...
- Tiêu dùng dịch vụ du lịch thỏa mãn các nhu cầu về hàng hóa (thức ăn, hàng hóa mua sắm, hàng lưu niệm v.v...) và đặc biệt chủ yếu là các nhu cầu về dịch vụ (lưu trú, vận chuyển hành khách, thông tin v.v...).
- Việc tiêu dùng du lịch chỉ thỏa mãn nhu cầu thứ yếu, những nhu cầu không thiết yếu của con người (với ngoại lệ ở thể loại du lịch chữa bệnh, khi đó du lịch có ý nghĩa sống còn đối với người bệnh). Tuy nhiên thức ăn, chỗ ngủ, quần áo ... cũng là nhu cầu thiết yếu đối với con người song chúng không đóng vai trò quyết định cho một chuyến du lịch.
- Việc tiêu dùng các dịch vụ du lịch và hàng hóa (chủ yếu là thức ăn) xảy ra trong cùng một thời gian và tại cùng một thời điểm với việc sản xuất ra chúng.
Trong du lịch, nhà kinh doanh không phải vận chuyển dịch vụ và hàng hóa đến cho khách hàng mà ngược lại, tự khách du lịch phải đi đến nơi có hàng hóa.
- Tiêu dùng du lịch xảy ra thông thường theo thời vụ.
Với những đặc điểm trên, các mối quan hệ trong tiêu dùng du lịch được phân làm 2 loại:
- Các mối quan hệ vật chất nảy sinh khi khách đến nơi du lịch và mua dịch vụ, hàng hóa ở đó bằng tiền tệ.
- Các mối quan hệ phi vật chất nảy sinh khi khách tiếp xúc với con người, văn hóa, phong tục tập quán của dân địa phương.
1.2.1. Tác động về mặt kinh tế của hoạt động du lịch
1.2.1.1 Tác động về mặt kinh tế của hoạt động du lịch nội địa
Du lịch nội địa tạo ra sự di chuyển, trao đổi giữa các vùng miền để tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ và hàng hóa du lịch của ngành du lịch và toàn xã hội. Nói cách khác, hoạt động du lịch nội địa có tác động tích cực đến sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác như sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp thực phẩm, nông nghiệp, công nghiệp gỗ, dệt, thủy sản, thủ công mỹ nghệ… nhằm tạo ra cơ sở vật chất và hàng hóa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và tiêu dùng của khách du lịch. Đây cũng là một cách để quảng bá những sản phẩm, những thế mạnh của địa phương. Ngoài ra du lịch phát triển còn tác động đến sự phát triển của y tế, văn hoá, thương mại, ngân hàng, giao thông vận tải… góp phần tăng thu nhập quốc dân.
Thông qua việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ của khách du lịch, du lịch nội địa góp phần làm khởi sắc kinh tế ở nơi du lịch, tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ bộ mặt kinh tế xã hội ở địa phương đó. Đấy cũng là điều kiện tốt để kích thích nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân chảy vào quá trình chu chuyển kinh tế. Đến lúc này, sự mở rộng đầu tư, tiêu dùng du lịch một lần nữa sẽ tác động tích cực đến phát triển kinh tế và tạo nên một hiệu ứng dây chuyền một cách liên tục.
Tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc dân (sản xuất đồ lưu niệm, chế biến thực phẩm, xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật v.v...) làm tăng thêm tổng sản phẩm quốc nội.
Tham gia tích cực vào quá trình phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các vùng. Nói cách khác là du lịch tác động tích cực vào việc làm cân đối cấu trúc thu
nhập và chi tiêu của nhân dân theo các vùng: thường thì các vùng phát triển mạnh du lịch là các vùng kém sản xuất ra của cải vật chất dẫn đến thu nhập của những người dân vùng đó từ sản xuất là rất thấp.
Du lịch nội địa giúp cho việc sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch quốc tế được hợp lý hơn. Vào trước và sau mùa vụ du lịch, khi khách quốc tế vắng có thể sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật ấy vào phục vụ khách du lịch nội địa. Theo cách đó vừa có tác động thúc đẩy sự phát triển của du lịch nội địa, vừa tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật.
1.2.1.2 Tác động về mặt kinh tế của hoạt động du lịch quốc tế
Tác động tích cực vào việc làm tăng thu nhập quốc dân thông qua thu ngoại tệ, đóng góp vai trò to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Cùng với hàng không dân dụng, kiều hối, cung ứng tàu biển, bưu điện quốc tế, chuyển giao công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ khác, du lịch quốc tế hàng năm đem lại cho các quốc gia nhiều ngoại tệ. Đây là tác động trực tiếp nhất của du lịch đối với nền kinh tế. Đã có nhiều nước trong khu vực và trên thế giới thu hàng tỷ USD mỗi năm thông qua việc phát triển du lịch.
Du lịch quốc tế là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao. Tính hiệu quả trong hoạt động du lịch quốc tế thể hiện trước nhất ở chỗ: đây là ngành xuất khẩu tại chỗ những hàng hóa công nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, đồ cổ phục chế nông lâm sản,... theo giá bán lẻ cao hơn (nếu như bán qua xuất khẩu thông thường sẽ theo giá bán buôn). Được trao đổi thông qua con đường du lịch, các hàng hóa được xuất khẩu mà không phải chịu hàng rào thuế quan mậu dịch quốc tế.
Du lịch quốc tế không chỉ là ngành “xuất khẩu tại chỗ” mà còn là ngành “xuất khẩu vô hình” hàng hóa du lịch. Đó là các cảnh quan thiên nhiên, khí hậu và ánh nắng mặt trời vùng nhiệt đới, những giá trị của những di tích lịch sử - văn hóa, tính độc đáo trong truyền thống dân tộc, phong tục tập quán v.v... mà không bị mất đi qua mỗi lần bán, thậm chí giá trị và uy tín của nó còn tăng lên qua mỗi lần đưa ra thị trường, nếu như chất lượng du lịch cao. Sở dĩ có hiện tượng trên là do chúng ta cho khách không phải bản thân tài nguyên du lịch, mà chỉ là các giá
trị, các khả năng thỏa mãn nhu cầu đặc trưng của khách du lịch được chứa đựng trong tài nguyên du lịch.
Với hai hình thức xuất khẩu trên cho thấy hàng hóa và dịch vụ bán thông qua du lịch quốc tế đem lại lợi nhuận kinh tế cao hơn do tiết kiệm được đáng kể các chi phí đóng gói bao bì, bảo quản và thuế xuất nhập khẩu, có khả năng thu hồi vốn nhanh và lợi nhuận cao do nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp có khả năng thanh toán.
Du lịch quốc tế khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Du lịch quốc tế góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế, cụ thể thông qua các mặt sau:
- Các tổ chức quốc tế mang tính chính phủ và phi chính phủ về du lịch tác động tích cực trong việc hình thành các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
- Du lịch quốc tế như một đầu mối “xuất – nhập khẩu” ngoại tệ, góp phần làm phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế.
Tại Việt Nam, du lịch quốc tế là cầu nối giao lưu kinh tế có quan hệ chặt chẽ với chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong kinh doanh du lịch quốc tế khách du lịch có thể là thương nhân. Mở rộng du lịch quốc tế gắn liền với tăng lượng khách phục vụ, trong đó sự đi lại tìm hiểu thị trường của khách thương nhân được chú trọng. Từ đó du lịch thúc đẩy đầu tư, buôn bán quốc tế v.v... Trong điều kiện lạc hậu nghèo nàn, thiếu vốn đầu tư, sự cần thiết hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam là điều hết sức quan trọng để thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Bản thân hoạt động kinh doanh du lịch cũng phát triển theo hướng quốc tế hóa, vì khách du lịch thường đến nhiều nước trong một chuyến đi du lịch dài ngày. Hình thức liên doanh, liên kết ở phạm vi quốc tế trong kinh doanh du lịch là phương thức kinh doanh đem lại lợi nhuận kinh tế cao. Hoạt động kinh doanh du lịch với lợi nhuận kinh tế cao, đến lượt nó kích thích đầu tư nước ngoài vào du lịch và tăng cường chính sách mở cửa. Thực tiễn phát triển kinh tế ở Thái Lan, Malaysia, Singapore v.v... đã chọn du lịch là một hướng mở cửa nền kinh tế.
1.2.1.3 Tác động khác về mặt kinh tế của hoạt động du lịch nói chung
Du lịch làm tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương phát triển du
lịch.
Hoạt động du lịch phát triển, tạo nguồn thu ngân sách cho các địa phương từ các khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc quản lý trực tiếp của địa phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh doanh trên địa bàn.
Du lịch góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo. Hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ liên ngành, yêu cầu về sự hỗ trợ liên ngành là sự hỗ trợ của các ngành khác như giao thông vận tải, tài chính, bưu điện, hải quan v.v... Đối với nền sản xuất xã hội thì du lịch mở ra một thị trường tiêu thụ hàng hóa. Mặc khác, sự phát triển du lịch tạo ra các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật ở các ngành kinh tế khác.
Phát triển du lịch sẽ mở mang, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế như mạng lưới giao thông công cộng, mạng lưới điện nước, các phương tiện thông tin đại chúng v.v...
Nếu xét về mặt hiệu quả của đồng vốn thì du lịch là một lĩnh vực hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác. Du lịch đem lại suất lợi nhuận cao, vì vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với một số ngành như ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải.... mà khả năng thu hồi vốn lại nhanh, kỹ thuật không phức tạp. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bổ sung thì nhu cầu về vốn đầu tư lại càng ít hơn so với lĩnh vực kinh doanh dịch vụ cơ bản mà lại thu hút lao động nhiều hơn, thu hồi vốn nhanh hơn.
Về mặt kinh tế, du lịch là phương tiện tuyên truyền, quảng cáo hữu hiệu cho hàng hóa nội địa ra nước ngoài thông qua du khách.
1.2.2 Tác động về mặt xã hội của hoạt động du lịch
Du lịch góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Theo như thống kê năm 2000 của thế giới, du lịch là ngành tạo việc làm quan trọng. Số lao động trong các hoạt động liên quan đến du lịch chiếm 10,7% tổng số lao động toàn cầu. Cứ 2,5 triệu giây, du lịch tạo ra được một việc làm mới. Theo dự báo của WHO, năm 2010 ngành du lịch sẽ tạo thêm khoảng 150 triệu việc làm, chủ yếu tập trung ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Thông thường tài nguyên du lịch thiên nhiên thường có nhiều ở những vùng núi xa xôi, vùng ven biển hay nhiều vùng hẻo lánh khác. Việc khai thác đưa những tài nguyên này vào sử dụng đòi hỏi phải có đầu tư về mọi mặt: giao thông, bưu điện, v.v... Do vậy, việc phát triển du lịch ở những khu vực này làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội ở những vùng đó, và cũng vì vậy mà góp phần làm giảm sự tập trung dân cư ở những vùng trung tâm.
Về mặt xã hội, du lịch là phương tiện tuyên truyền quảng cáo hữu hiệu cho các thành tựu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giới thiệu về con người, phong tục tập quán v.v... cho nước chủ nhà.
Du lịch làm tăng thêm tầm hiểu biết chung về xã hội của người dân thông qua người của địa phương khác, khách nước ngoài.
Du lịch làm tăng thêm tình đoàn kết, hữu nghị, mối quan hệ hiểu biết của nhân dân giữa các vùng với nhau và của nhân dân ở các quốc gia với nhau.
Du lịch đánh thức các làng nghề cổ truyền của các dân tộc bởi các lý do
sau:
- Khách du lịch thường rất thích mua các đồ lưu niệm mang tính dân tộc, đó là các sản phẩm của các nghề thủ công mỹ nghệ cổ truyền.
- Khách du lịch văn hóa ngày càng đông, họ thường đi các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa dân tộc. Do vậy, việc tôn tạo và bảo dưỡng các di tích đó ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Nghề thủ công mỹ nghệ cổ truyền dân tộc phục vụ cho các mục đích có điều kiện phục hồi và phát triển hơn như: nghề khảm, khắc, sơn mài, đẽo, tạc tượng, làm tranh lụa, tranh thêu v.v...
1.2.3 Một số tác động tiêu cực của hoạt động du lịch
Việc phát triển du lịch ồ ạt, thiếu quy hoạch tạo ra lợi nhuận trong thời gian ngắn nhưng về lâu dài, du lịch có thể làm tổn hại đến các di sản văn hóa và lịch sử, là giảm giá trị của các di sản đó.
Công tác quản lý yếu kém của chính quyền địa phương đối với hoạt động du lịch đôi khi gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh, tạo ra những thói quen mua bán thiếu tính chuyên nghiệp làm mất thiện cảm nơi du khách và để lại những suy nghĩ về những hình ảnh không tốt đẹp về địa phương và con người ở đó.
Du lịch có tác động mạnh mẽ đến cảnh quan và môi trường thiên nhiên tại địa phương:
- Ảnh hưởng tới nhu cầu và chất lượng nước: Du lịch là ngành công nghiệp tiêu thụ nước nhiều, thậm chí tiêu hao nguồn nước sinh hoạt hơn cả nhu cầu nước sinh hoạt của địa phương.
- Nước thải: Nếu như không có hệ thống thu gom nước thải cho khách sạn, nhà hàng thì nước thải sẽ ngấm xuống bồn nước ngầm hoặc các thuỷ vực lân cận (sông, hồ, biển), làm lan truyền nhiều loại dịch bệnh như giun sán, đường ruột, bệnh ngoài da, bệnh mắt hoặc làm ô nhiễm các thuỷ vực gây hại cho cảnh quan và nuôi trồng thủy sản.
- Rác thải: Vứt rác thải bừa bãi là vấn đề chung của mọi khu du lịch. Ðây là nguyên nhân gây mất cảnh quan, mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và nảy sinh xung đột xã hội.
- Ô nhiễm không khí: Tuy được coi là ngành "công nghiệp không khói", nhưng du lịch có thể gây ô nhiễm khí thông qua phát xả khí thải động cơ xe máy và tàu thuyền, đặc biệt là ở các khu vực trọng điểm và trục giao thông chính, gây hại cho cây cối, động vật hoang dại và các công trình xây dựng bằng đá vôi và bê tông.
- Năng lượng: Tiêu thụ năng lượng trong khu du lịch thường không hiệu quả và lãng phí.
- Ô nhiễm tiếng ồn: Tiếng ồn từ các phương tiện giao thông và du khách có thể gây phiền hà cho cư dân địa phương và các du khách khác kể cả động vật hoang dại.
- Ô nhiễm phong cảnh: Ô nhiễm phong cảnh có thể được gây ra do khách sạn nhà hàng có kiến trúc xấu xí thô kệch, vật liệu ốp lát không phù hợp, bố trí các dịch vụ thiếu khoa học, sử dụng quá nhiều phương tiện quảng cáo nhất là các phương tiện xấu xí, dây điện, cột điện tràn lan, bảo dưỡng kém đối với các công trình xây dựng và cảnh quan. Phát triển du lịch hỗn độn, pha tạp, lộn xộn là một trong những hoạt động gây suy thoái môi trường tệ hại nhất.
- Làm nhiễu loạn sinh thái: Việc phát triển hoạt động du lịch thiếu kiểm soát có thể tác động lên đất (xói mòn, trượt lở), làm biến động các nơi cư trú, đe