phương tiện tiến hành để giám định, các căn cứ để đưa ra kết luận giám định. trả lời những câu hỏi của hội đồng xét xử, câu hỏi của những người tham gia tố tụng khác. Trong trường hợp cần thiết, người giám định có thể đặt câu hỏi đối với những người tham gia tố tụng khác. Việc trả lời câu hỏi cần rõ ràng, ngắn gọn, đúng phạm vi chuyên môn, biết từ chối những câu hỏi có nội dung ngoài phạm vi trách nhiệm [43].
Từ những vai trò quan trọng nêu trên, có thể thấy PYTT là một trong những hoạt động bổ trợ tư pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và không thể thiếu trong bất kỳ nền tư pháp nào.
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với hoạt động giám định pháp y tâm thần
Chính vì pháp luật có những điều khoản nhân đạo đối với những người phạm tội bị mắc bệnh tâm thần nên một số tội phạm đã lợi dụng điều đó để cố tình phạm tội mà không bị trừng trị. Mặt khác, cũng có nhiều người mắc bệnh tâm thần tiềm ẩn không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đến khi bệnh phát gây hậu quả nghiêm trọng như tự sát, giết người... mới phát hiện và đưa đi giám định. Thực tế hiện nay đã có rất nhiều vụ án nghiêm trọng xảy ra mà người gây án mắc bệnh tâm thần hoặc giả tâm thần tương đối phổ biến và ngày càng phức tạp đòi hỏi vai trò của các giám định viên PYTT là đặc biệt quan trọng. Họ phải hết sức thận trọng trong quá trình giám định để đưa ra những kết luận chính xác, khách quan, trung thực, đảm bảo công bằng cho các trường hợp cần giám định pháp y tâm thần. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hoạt động GĐTP nói chung và GĐPYTT nói riêng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế (từ cơ chế, chính sách, cơ sở vật chất, nhân lực, nhận thức của các cấp chính quyền, của tổ chức giám định tư pháp, người giám định đến mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan chuyên môn quản lý về lĩnh vực giám định và cơ quan quản lý nhà nước...). Do đó các cơ quan quản lý nhà nước
cần nghiên cứu, sửa đổi hoàn thiện các quy định về quản lý nhà nước trong Bộ luật tố tụng hình sự về giám định tư pháp; khẩn trương hoàn thành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật giám định tư pháp; các quy định về quy trình, quy chuẩn trong giám định. Tăng cường đầu tư phát triển về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đặc biệt là tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao làm công tác GĐPYTT [43, tr.158].
1.2.3. Đặc điểm của hoạt động giám định pháp y tâm thần
1.2.3.1. Đặc điểm của người làm công tác giám định
Công việc giám định pháp y tâm thần được coi là nghề “mổ xẻ cái đầu” để tìm ra bệnh. Thật không dễ dàng để các bác sĩ pháp y tâm thần kết luận đối tượng có bệnh hay không. Nghề này chưa được xã hội đánh giá cao nên số lượng bác sĩ tâm huyết đến với nghề rất ít mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho những người làm trong ngành này.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nhà nước về hoạt động Pháp y Tâm thần tại khu vực Tây Nguyên - 1
- Quản lý nhà nước về hoạt động Pháp y Tâm thần tại khu vực Tây Nguyên - 2
- Vai Trò Của Giám Định Pháp Y Tâm Thần Trong Tố Tụng Và Hỗ Trợ Tư Pháp
- Sự Cần Thiết Phải Quản Lý Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Pytt
- Tổng Quan Về Trung Tâm Pháp Y Tâm Thần Khu Vực Tây Nguyên
- Kết Quả Hoạt Động Pháp Y Tâm Thần Tại Trung Tâm Pháp Y Tâm Thần Khu Vực Tây Nguyên Từ Năm 2018 Đến Năm 2020
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Theo Viện Giám định PYTT Trung ương, trong số giám định viên được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm, nhiều người đã lớn tuổi, đã hoặc sắp phải nghỉ hưu. Các Viện Giám định PYTT không chỉ thực hiện chức năng giám định PYTT đối với can phạm mà còn phải quản lý và điều trị đối tượng phạm pháp bắt buộc chữa bệnh tâm thần. Đây là công việc vô cùng nguy hiểm, khó khăn và phức tạp bội phần. Trong khi đó việc tuyển giám định viên lại rất khó khăn.
Người làm GĐPYTT thật sự luôn phải đối mặt với nguy hiểm và cả những cám dỗ... Chính vì thế người giám định viên không những phải có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm dày dặn mà đặc biệt cần sự dũng cảm, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, đạo đức lương tâm trong sáng để có thể đưa ra những kết luận chính xác, khoa học và trung thực tuyệt đối. Ngành GĐPYTT thực sự đóng một vai trò quan trọng trong việc thực thi những chính sách nhân đạo và pháp luật nghiêm minh của Đảng và Nhà nước, bảo vệ và cứu chữa cho người
bệnh đồng thời cũng phát hiện ra kẻ tội phạm giúp pháp luật trừng trị đúng người đúng tội góp phần làm trong sạch xã hội, gìn giữ an ninh trật tự và công bằng xã hội [43, tr.128-129].
1.2.3.2. Đặc điểm của đối tượng giám định
Đối tượng giám định là đối tượng do người trưng cầu giám định đưa tới theo quyết định trưng cầu giám định pháp y tâm thần và đã được cơ sở tiến hành giám định pháp y tâm thần đồng ý tiếp nhận.
Thực tế hiện nay, đối tượng giám định thường là những đối tượng phạm tội hình sự, tranh chấp dân sự… được cơ quan điều tra đưa tới cơ sở giám định pháp y tâm thần để trưng cầu giám định nhằm xác định đối tượng có bệnh tâm thần hay rối loạn tâm thần không? bệnh/rối loạn tâm thần ảnh hưởng tới nhận thức, năng lực điều khiển hành vi (trước, trong, sau khi gây án và hiện tại) như thế nào?
Điểm đặc biệt của những đối tượng phạm tội tâm thần là họ vừa không kiểm soát được hành động của mình vừa có tính cách côn đồ, do đó giám định viên phải đối diện với rất nhiều hiểm nguy. Việc các giám định viên bị bệnh nhân tấn công là chuyện khó tránh khỏi. Nhiều đối tượng đã từng vào tù ra tội và mắc các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như lao, HIV... Khi bị kích động, họ có thể bất ngờ đánh cả giám định viên. Sự va chạm đụng độ có thể gây ra thương tích và khả năng lây nhiễm các bệnh nguy hiểm cho các giám định viên là rất cao. Đối với những đối tượng giả tâm thần để hòng thoát tội khi bị các giám định viên phát hiện, làm rõ cũng tiềm tàng những hành vi trả thù rất nguy hiểm. Nhiều nơi đã từng xảy ra vụ án đối tượng tìm đến nhà đe dọa giết giám định viên và người nhà... Mặt khác, việc gia đình đối tượng dùng tiền và vật chất để mua chuộc các giám định viên nhằm thay đổi quyết định giám định hòng cho người thân mình được thoát tội cũng đã từng xảy ra ở nhiều nơi ... Nhưng mọi hành vi vi phạm pháp luật của họ đều bị thất bại trước bản
lĩnh nghề nghiệp và lương tâm trong sáng của những người thầy thuốc, những giám định viên pháp y tâm thần [43, tr.129-32].
1.2.3.3. Đặc điểm về việc theo dõi, quản lý đối tượng giám định pháp y tâm thần
Giám định pháp y tâm thần là lĩnh vực chuyên môn sâu, liên quan tới xã hội, chính trị, có mối quan hệ mật thiết giữa y học và pháp luật. Khi thực hiện công tác chuyên môn đòi hỏi phải đảm bảo tính chính xác, trung thực và khách quan, do vậy yêu cầu đặt ra trong công tác quản lý, chăm sóc, thăm khám và xử trí đối tượng trong giai đoạn theo dõi giám định là rất quan trọng.
Việc theo dõi đối tượng giám định trong quá trình giám định pháp y tâm thần được xác định là một trong những yêu cầu bắt buộc.
Theo dõi đối tượng giám định (được hiểu) là quá trình theo dõi thường xuyên, liên tục và sát quá trình sinh hoạt của đối tượng giám định; ghi chép tỉ mỉ, đầy đủ mọi diễn biến của đối tượng giám định vào hồ sơ bệnh án theo dõi giám định; trường hợp đặc biệt phải bố trí theo dõi bằng máy ghi hình (camera). Thời gian theo dõi giám định thông thường từ 02- 06 tuần, trường hợp cần kéo dài ngoài thời gian trên để theo dõi và giám định đối tượng, cơ quan giám định phải thông báo cho người trưng cầu giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Giám định pháp y tâm thần có nhiệm vụ bổ trợ hoạt động tư pháp, sản phẩm của nó giúp các sơ quan tiến hành tố tụng giải quyết những vấn đề liên quan đến pháp luật và y học cho nên việc theo dõi đối tượng giám định trong thời gian giám định là hết sức cần thiết để sản phẩm của việc Giám định pháp y tâm thần được chính xác và khách quan [43, tr.20-21].
Từ những đặc điểm trên, rất cần mọi người trong xã hội nâng cao hiểu biết về căn bệnh tâm thần và chuyên ngành GĐPYTT để có sự phối hợp, hỗ trợ cho các nhà chuyên môn trong quá trình phát hiện bệnh sớm để có thể phòng ngừa và kịp thời ngăn chặn những hành vi nguy hiểm do những người
bị mắc bệnh tâm thần có thể gây ra cho xã hội và bản thân họ, góp phần gìn giữ sự bình yên cho cộng đồng.
1.3. Quản lý nhà nước về hoạt động pháp y tâm thần
Quản lý nhà nước là thuật ngữ ở Việt Nam với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Khái niệm quản lý nhà nước chỉ xuất hiện cùng với sự ra đời và tồn tại của nhà nước.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động của cả ba hệ thống cơ quan nhà nước: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp. Quản lý nhà nước có các đặc điểm sau đây:
- Chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan, công chức trong bộ máy nhà nước được trao quyền lực công (quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp).
- Đối tượng quản lý của nhà nước (Khách thể) là tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, trong đó có Trung tâm GĐPYTT khu vực Tây Nguyên chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Y tế và Bộ Tư pháp.
- Quản lý nhà nước có tính toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao…
Mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển bền vững trong xã hội.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ quan nhà nước nói chung còn thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình, chẳng hạn ra quyết định thành lập, chia tách, sáp
nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc nội bộ… Quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp còn đồng nghĩa với khái niệm quản lý hành chính nhà nước với các đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang quyền lực nhà nước.
- Thứ hai, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi những chủ thể có quyền năng hành pháp.
- Thứ ba, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tính thống nhất, được tổ chức chặt chẽ.
- Thứ tư, hoạt động quản lý hành chính nhà nước mang tính chấp hành và điều hành.
Quản lý nhà nước là một dạng đặc biệt của quản lý, được sử dụng các quyền lực nhà nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp để quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, Quản lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt là tính tổ chức cao và có mục tiêu, chiến lược, chương trình, kế hoạch để thực hiện mục tiêu, hơn cả là Quản lý nhà nước ở Việt Nam mang nguyên tắc tập trung dân chủ. Quản lý nhà nước không có sự tách biệt tuyệt đối giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý và nó luôn đảm bảo tính liên tục, ổn định trong tổ chức.
Trong bất kỳ một thể chế xã hội nào cũng cần có sự quản lý, đó là hoạt động bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động là một hoạt động khách quan nảy sinh khi cần có nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Quản lý nhà nước về hoạt động PYTT là quá trình tác động, điều chỉnh thường xuyên của nhà nước bằng quyền lực nhà nước đối với hoạt động PYTT một cách có hiệu quả. Tổng thể các biện pháp và các khâu của quản lý (lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, phối
hợp điều hành và kiểm tra, giám sát) nhằm tạo chuyển biến căn bản, đột phá về chất lượng và hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tố tụng, phòng, chống tội phạm, đồng thời tạo động lực mới thúc đẩy xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động giám định tư pháp.
Ngày 28/02/2018 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 250/2018/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp. Nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về lĩnh vực GĐPYTT và điều trị bắt buộc chữa bệnh, ngay sau đó Bộ Y tế đã xây dựng và ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Đề án cũng như ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp giai đoạn 2018-2023.
1.4. Vai trò quản lý nhà nước về hoạt động pháp y tâm thần
Luật Giám định tư pháp năm 2012, định nghĩa Giám định tư pháp (GĐTP) là việc người GĐTP sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật.
Đặc trưng cơ bản của hoạt động GĐTP nói chung và GĐPYTT nói riêng là hoạt động chuyên môn do chuyên gia thực hiện. Để phục vụ cho việc giải quyết các vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau nhằm thu thập chứng cứ và một trong những biện pháp đó là trưng cầu GĐTP. Theo quy định của pháp luật tố tụng thì trong một số trường hợp bắt buộc hoặc khi xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng có thể trưng cầu giám định tư pháp. Cơ quan tiến hành tố tụng có thể trưng cầu bất cứ chuyên gia nào có kiến thức về lĩnh vực chuyên môn liên
quan đến vụ án để thực hiện giám định. Khi thực hiện giám định, người GĐTP phải sử dụng những kiến thức nghiệp vụ, phương pháp phù hợp và phải thực hiện đúng các quy chuẩn chuyên môn của từng lĩnh vực cụ thể để thực hiện giám định và phải chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định do mình thực hiện.
Xuất phát từ nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân nên khi thực hiện giám định, người giám định không phải chịu chi phối từ phía cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Hoạt động GĐTP không mang tính quyền lực nhà nước. Mục đích hoạt động GĐTP được thực hiện nhằm cung cấp các chứng cứ để phục vụ cho việc giải quyết các vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài ra, hiện nay, nhu cầu cần giám định để phục vụ công tác quản lý Nhà nước, thanh tra, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ, giao dịch dân sự của tổ chức, cá nhân ngày một nhiều.
Xét trên phương diện quyền công dân trong một Nhà nước pháp quyền, hoạt động GĐTP góp phần bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thông qua việc tạo lập và cung cấp những chứng cứ không thể phản bác, bảo đảm an toàn cho công dân trong các quan hệ pháp luật mà họ tham gia. Thực tiễn thời gian qua cho thấy hoạt động GĐTP có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả và chất lượng của hoạt động tố tụng. Thực hiện GĐTP là một biện pháp hữu hiệu trong việc giải quyết các vụ án, hướng hoạt động tố tụng theo cơ chế minh bạch, đúng người đúng tội, tránh oan sai, phụng sự công lý, nó là một kênh quan trọng để đánh giá trình độ phát triển pháp luật và mức độ dân chủ của một quốc gia cũng như ở các địa phương.
Đổi mới nhận thức về GĐTP vừa là đòi hỏi từ phía Nhà nước vừa là đòi hỏi đối với công dân, tổ chức và chính đội ngũ những người làm giám định tư pháp, vì chỉ khi nhận thức đúng vai trò GĐTP, Nhà nước mới tổ chức, quản lý tốt hoạt động GĐTP; công dân và tổ chức mới biết sử dụng kết quả giám định