xuyên xảy ra xung đột, và điều đó chứng tỏ rằng cộng đồng vùng cao c ng nhận ra được tầm quan trọng và vai trò của họ. Các doanh nghiệp như nhà máy thủy điện, công ty cung cấp nước thành phố là đối tượng thường không đưa ra cam kết dài hạn với cộng đồng địa phương vì họ cho rằng đây là mặt hàng không có nhiều người mua để lựa chọn. Vì vậy, các kế hoạch chi trả môi trường có thể hợp thức hóa cơ chế chia sẻ trách nhiệm về sinh kế và đạt được mục tiêu kinh tế bền vững. việc thực hiện chi trả dịch vụ môi trường bao gồm các hợp đồng bảo tồn giữa người cung cấp dịch vụ và bên hưởng lợi từ dịch vụ.
Indonesia: Thành phố Mataram và huyện Tây Lombok thiết lập cơ chế chuyển giao dịch từ các chức năng rừng phòng hộ đầu nguồn. Các khách hàng của công ty PDAM (40000 hộ gia đình) ở Mataram đồng ý trả 0.15- 0.20 USD hàng tháng cho công tác bảo tồn chức năng rừng phong hộ đầu nguồn tại huyện Tây Lombok.
Trung Quốc: Loại hình chi trả công cộng đã được tiến hành từ năm 1998 ở Trung Quốc. Khi đó, Luật Bảo vệ và phát triển rừng được sửa đổi nhằm thể chế hóa và cho phép hệ thống đền bù HST rừng. Giai đoạn 2001 - 2004, hệ thống đền bù HST rừng lần đầu tiên được tiến hành thí điểm làm cơ sở cho Quỹ đền bù HST rừng được thành lập vào năm 2004. Tháng 6/2007, Quỹ Các bon Quốc gia c ng đã được thành lập với sự hỗ trợ của Tổ chức Bảo tồn Quốc tế (CI), Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên (TNC) và Chính phủ Trung Quốc (Cục Lâm nghiệp) nhằm thúc đẩy trồng rừng, quản lý rừng bền vững và bảo vệ rừng của các cộng đồng địa phương cho mục đích hấp thụ các bon. Công ty China Petrol, CI, TNC, Chính phủ và một số doanh nghiệp khác đó đóng góp vào quỹ này [11].
Nepal: Ban quản lý rừng địa phương và Ủy ban phát triển thôn bản xây dựng kế hoạch quản lý và hoạt động, trình lên ủy ban phát triển huyện để phê duyệt. Hiệp hội Điện lực quốc gia trả phí từ công trình thuỷ điện đang hoạt
động cho hoạt động bảo tồn đầu nguồn, được sử dụng làm nguồn chi trả cho cộng đồng vì hoạt động sử dụng đất bền vững [12].
Tại Ấn Độ: Cơ chế khuyến khích được thực hiện bằng cách tạo nguồn chi trả từ người nhận đến người cung cấp dịch vụ HST thông qua các đóng góp đầu vào, đầu ra hoặc các đền bù cơ hội tại 3 lưu vực sông. Quỹ Bảo vệ đập đã được thành lập và hoạt động từ nguồn phí phụ trội thêm vào phí bơm nước theo giờ. Các khuyến khích khác bao gồm bảo vệ bãi chăn thả, trồng cây tại bãi chăn thả, chia sẻ nhân công và vật liệu trong việc xây dựng 9 đập nhỏ.
1.1.4. Hoạt động PES tại Châu Úc.
Tại Australia, loại thỏa thuận thị trường được áp dụng tại bang New South Wales. Năm 1998, Pháp chế về quyền các bon ra đời cho phép các nhà đầu tư đăng ký làm chủ sở hữu hấp thụ các bon của rừng [34].
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá hiệu quả Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đến công tác quản lý bảo vệ rừng, cải thiện đời sống người dân Lưu vực Nhà máy thủy điện Cửa Đạt trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn từ 2012- 2016 - 1
- Đánh giá hiệu quả Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đến công tác quản lý bảo vệ rừng, cải thiện đời sống người dân Lưu vực Nhà máy thủy điện Cửa Đạt trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn từ 2012- 2016 - 2
- Ý Nghĩa Khoa Học Và Thực Tiễn Của Đề Tài Nghiên Cứu
- Hiện Trạng Rừng Và Đất Rừng Phân Theo Chủ Quản Lý
- Công Tác Bảo Vệ Và Phát Triển Rừng, Tình Hình Triển Khai Chi Trả Dvmtr Ở Địa Phương
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
1.1.5. Nhận xét. Từ các mô hình PES ở các nước cho thấy:
Chi trả PES được áp dụng khá thành công trong việc bảo vệ môi trường, đặc biệt là công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết các mô hình chi trả dịch vụ môi trường, thể hiện ở các vấn đề như: xây dựng khung pháp luật và chính sách, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính thông qua các chương trình tổng hợp, giám sát quá trình giao dịch các tín chỉ của dịch vụ hệ sinh thái. Kinh nghiệm cho thấy, quá trình thực hiện PES, phải thành lập các quỹ, xây dựng các chính sách hỗ trợ PES, đồng thời đầu tư cho các chương trình điều tra, nghiên cứu về sinh thái, lượng giá kinh tế và môi trường. Việc xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ môi trường phụ thuộc vào cơ chế quản lý của mỗi quốc gia. Các cơ chế thị trường và thỏa thuận trực tiếp trong thực hiện PES hiện nay thường được thực hiện tại các nước phát triển. Trong khi đó, các hình thức chi trả công cộng thông qua các quỹ hoặc trung gian bằng tiền mặt nhưng thường đi kèm hoặc chỉ có các lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp cho toàn bộ cộng đồng hoặc các hộ gia đình, lại
thường được lựa chọn tại các nước đang phát triển, có sự phối hợp chặt chẽ của các bộ ngành liên quan.
1.2. Tại Việt Nam
1.2.1. Những nghiên cứu về chi trả DVMTR tại Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ dịch vụ hệ sinh thái được sử dụng phổ biến hơn thuật ngữ dịch vụ môi trường bởi vì dịch vụ môi trường đang được hiểu là theo nghĩa bảo vệ môi trường như các vấn đề ô nhiễm. Thuật ngữ dịch vụ hệ sinh thái được sử dụng trong dự thảo Luật Đa dạng sinh học và khung chính sách thí điểm của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Hơn 10 năm qua, khái niệm chi trả dịch vụ môi trường và các ứng dụng của nó đã và đang nhận được sự quan tâm đáng kể của các nhà nghiên cứu môi trường, các nhà khoa học và nhà hoạch định chính sách tại Việt Nam.
Việc sử dụng công cụ thị trường để bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên và góp phần cải thiện sinh kế không phải là hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam. Bắt đầu từ đầu những năm 1990, Chính phủ Việt Nam đã bỏ ra hàng triệu đô la để chi trả cho những người dân bảo vệ rừng đầu nguồn (chủ yếu là chương trình trồng rừng theo Quyết định số 327-CT ngày 15/9/1992 và dự án trồng mới 5 triệu ha rừng theo Quyết định số 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ). Các chương trình này kéo dài cho tới tận ngày nay, giúp bảo vệ hàng triệu ha rừng quý hiếm khỏi bị tàn phá.
Gần đây, Chính phủ c ng đang rất nỗ lực để phối hợp với các tổ chức quốc tế xây dựng và thực hiện chương trình Giảm phát thải do mất rừng và suy thoái rừng, nhằm góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực do phát thải khí CO2 gây ra. Việt Nam đã được chọn là một trong 9 quốc gia được Chương trình giảm phát thải do mất rừng và suy thoái rừng của Liên Hợp Quốc trợ giúp để xây dựng chương trình Quốc gia về giảm phát thải do mất rừng và suy thoái rừng.
Luật Đa dạng sinh học được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008 quy định "tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ môi trường liên quan đến đa dạng sinh học có trách nhiệm trả tiền cho tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ" và đây c ng là nguồn tài chính cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 đã đề cập đến việc xây dựng cơ chế chính sách chi trả DVMTR, coi đó là một trong những nguồn tài chính tiềm năng đầu tư lại trực tiếp vào rừng.
Hiện tại, Quỹ Bảo tồn Hoang dã Thế giới (WWF) đang thực hiện một số dự án về các mô hình chi trả DVMTR như bảo vệ đầu nguồn, bảo tồn đa dạng sinh học, và du lịch sinh thái, tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) còn thực hiện Dự án chi trả dịch vụ môi trường - ứng dụng tại khu vực ven biển. Những dự án này được tổ chức thực hiện trong các chương trình do Bộ Nông nghiệp và PTNT phối hợp với Tổ chức Winrock International. Ngoài ra, Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) còn thực hiện dự án chi trả dịch vụ môi trường - ứng dụng tại khu vực ven biển. Dự án xây dựng cơ chế chi trả cho hấp thụ các-bon trong lâm nghiệp, thí điểm tại huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình do Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường Rừng thực hiện [32].
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường đang đề xuất nghiên cứu đề tài khoa học công nghệ “Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất cơ chế chi trả dịch vụ môi trường đất ngập nước ở Việt Nam”, với mục tiêu đề xuất cơ chế DVMTR phù hợp với điều kiện Việt Nam, nhằm bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường c ng hỗ trợ một số hoạt động đánh giá và tìm cơ hội thị trường cho DVMTR ở tỉnh Quảng Nam và Quảng Trị.
Trung tâm nghiên cứu sinh thái và môi trường rừng - Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam thực hiện đề tài "nghiên cứu lượng giá kinh tế môi trường rừng và dịch vụ môi trường của một số loại rừng chủ yếu ở Việt Nam". Bằng phương pháp xây dựng mô hình SWAT (Soil & Water Assesement Tool), tạo ra những kịch bản để tính toán thiệt hại, đã lượng được giá trị của rừng về hạn chế xói mòn đất và điều tiết nước của một số loại rừng ở lưu vực Sông Cầu và vùng đầu nguồn hồ Thác Bà (thuộc địa giới hành chính các tỉnh: Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc và Hà Nội) [32].
Tại Lâm Đồng, Nghiên cứu đã sử dụng Mô hình SWAT-Mô hình đánh giá đất và nước cho hai tình huống khác nhau: bảo vệ độ che phủ rừng hiện tại và chuyển 45.000 héc-ta rừng thông sang làm nông nghiệp. Mô hình SWAT đã được sử dụng để dự báo sự chảy tràn bề mặt và mức phù sa lơ lửng đi vào hồ chứa Đa Nhim [17]. Một mô hình đã được thiết lập xem xét lượng phù sa lắng đọng trong hồ cho hai tình huống. Tổng sản lượng điện bị mất đi do sự chuyển đổi giữa hai tình huống đã được ước lượng, và tài chính từ việc sản xuất điện trong thời gian tuổi thọ của hồ chứa. Sự thay đổi trong giá trị ròng hiện tại giữa hai tình huống đã được ước lượng, c ng như giá trị ròng hiện tại của các tổn thất. Cuối cùng, giá trị của các dịch vụ môi trường mà rừng cung cấp trong việc giảm bồi lắng phù sa lòng hồ đã được ước lượng, làm cơ sở xem xét ban hành Nghị định về chi trả môi trường cấp quốc gia [28].
Chương trình Bảo tồn Đa dạng Sinh học Vùng Châu Á đã hoàn tất một số nghiên cứu tạo cơ sở cho việc lập kế hoạch du lịch bền vững ngắn hạn và trung hạn tại Lâm Đồng. Các nghiên cứu này bao gồm Phương án chọn lựa cho các cơ chế tạo tài chính cho đa dạng sinh học và du lịch, phân tích chi phí
- lợi ích của du lịch bền vững, gắn du lịch và chi trả DVMTR ở Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà, Lâm Đồng. Kết quả nghiên cứu được đưa ra thảo luận,
Chương trình Bảo tồn Đa dạng Sinh học Vùng Châu Á đã đưa ra mức chi trả là 0,5 - 2% doanh thu ròng hàng năm của các công ty du lịch [28].
Từ đầu năm 2008, chi trả DVMTR lần đầu tiên được được thực hiện thí điểm tại 2 tỉnh Sơn La và Lâm Đồng theo Quyết định 380/QĐ-TTg ngày 10 tháng 04 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ. Sau 2 năm thực hiện, kết quả đã thu được thành công nhất định, rừng được bảo vệ tốt hơn.
Tại Sơn La, bên sử dụng dịch vụ được xác định là các nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình, nhà máy thuỷ điện Suối Sập, công ty Cấp nước Phù Yên và công ty Cấp nước Mộc Châu, bên cung cấp dịch vụ là các chủ rừng trên địa bàn 2 huyện thí điểm Mộc Châu và Phù Yên. Mức chi trả của từng công ty được xác định dựa trên tổng lượng điện/tổng lượng nước kinh doanh hàng năm trong đó đối với 1Kwh điện là 20 đồng, 1m3 nước là 30 đồng [28].
Chủ rừng đã nhận được mức chi trả tiền DVMTR như sau: rừng phòng hộ là rừng tự nhiên 140.243 đồng/ha/năm, rừng phòng hộ là rừng trồng:
126.219 đồng/ha/năm, rừng sản xuất là rừng tự nhiên: 84.146 đồng/ha/năm và rừng sản xuất là rừng trồng: 70.121 đồng/ha/năm.
Tại Lâm Đồng, chương trình thí điểm đã nhận được sự đồng thuận cao của các bên liên quan và hiện nay các nhà máy thuỷ điện Đa Nhim và Đại Ninh đã chi trả khoảng 55 tỷ đồng cho hơn 8.000 hộ dân bảo vệ rừng [28].
Người dân tham gia nhận khoán bảo vệ rừng tại lưu vực hồ thuỷ điện Đa Nhim đã nhận được mức chi trả tiền DVMTR là 290.000 đồng/ha/năm, lưu vực hồ thuỷ điện Đại Ninh là 270.000 đồng/ha/năm. Tại lưu vực hai nhà máy thuỷ điện, bình quân mỗi hộ gia đình nhận khoán từ 15-20 ha, mỗi năm nhận được khoảng từ 4-5 triệu đồng.
Tuy nhiên, thực hiện chi trả DVMTR tại 2 tỉnh Sơn La và Lâm Đồng còn có những hạn chế nhất định, đó là một số diện tích rừng chưa có chủ quản lý cụ thể do đó tiền DVMTR chưa được tri trả trực tiếp cho chủ rừng, cơ sở để
tính toán hệ số K điều chỉnh mức chi trả DVMTR ở các tỉnh rất khác nhau (tỉnh Sơn La: hệ số K chưa được dựa trên yếu tố về mức độ khó khăn, thuận lợi bảo vệ rừng, tỉnh Lâm Đồng: hệ số K chưa được dựa trên yếu tố về trạng thái lô rừng được chi trả).
Căn cứ kết quả thí điểm chi trả DVMTR tại 2 tỉnh Sơn La, Lâm Đồng và kết quả thực hiện tại một số quốc gia, xét đề nghị Bộ Nông nghiệp và PTNT, ngày 24/9/2010 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2010/NĐ-CP về chính sách chi trả DVMTR để thực hiện thống nhất trên phạm vi cả nước. Ngày 13/12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2284/QĐ- TTg phê duyệt Đề án triển khai Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 về chính sách chi trả DVMTR.
1.2.2. Nhận xét về kết quả thực hiện PES ở nước ta
Tại Việt Nam Sau khi Luật Đa dạng sinh học được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 4, ngày 18/10/2008 cùng với sự ra đời của Quyết định 380/QĐ-TTg ngày 10/04/2008 của Thủ tướng Chính phủ, rất nhiều dự án thí điểm về dịch vụ môi trường rừng đã được triển khai tại nhiều địa phương. Các mô hình thí điểm đã được tổ chức thực hiện từ năm 2006-2009 do Bộ NN và PTNT phối hợp với tổ chức Winrock International, chương trình môi trường trọng điểm và Sáng kiến hành lang bảo tồn đa dạng sinh học do Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) tài trợ từ năm 2006 -2010. Các tỉnh được chọn thực hiện thí điểm gồm có Sơn La, Lâm Đồng, Bình Thuận, Ninh Thuận. Ngoài ra, Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới c ng đang tiến hành các hoạt động đánh giá và tìm cơ hội cho dịch vụ môi trường rừng ở tỉnh Quảng Nam và Quảng Trị.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thí điểm của Quyết định 380/QĐ-TTg ngày 18/10/2008 và các kết quả nghiên cứu khác, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 về chính sách Chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR). Nguyên tắc cơ bản của Chi trả dịch vụ môi
trường rừng là đảm bảo lợi ích cho người cung cấp dịch vụ môi trường, ở cả cấp độ cá nhân và cộng đồng, thông qua việc nhận được bồi hoàn cho chi phí của việc cung cấp những dịch vụ này. Từ năm 2004, Chính phủ Việt Nam đã thiết lập cơ sở pháp lý nhằm thực hiện chương trình quốc gia về chi trả dịch vụ môi trường rừng thông qua Luật Bảo vệ và Phát triển rừng sửa đổi (2004). Nghị định số 99/2010/NĐ-CP đã được ban hành nhằm triển khai Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trên phạm vi toàn quốc từ 01/01/2011. Có thể nói, Việt Nam đã trở thành quốc gia đầu tiên tại châu Á ban hành và triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng ở cấp quốc gia. Mục tiêu của chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam là: Bảo vệ diện tích rừng hiện có, nâng cao chất lượng rừng, gia tăng đóng góp của ngành lâm nghiệp vào nền kinh tế quốc dân, giảm nhẹ gánh nặng lên ngân sách Nhà nước cho việc đầu tư vào bảo vệ và phát triển rừng và đảm bảo an sinh xã hội của người làm nghề rừng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một đánh giá và nghiên cứu toàn diện về thực trạng triển khai Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng ở Việt Nam c ng như trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Sau gần 05 năm triển khai thực hiện, chính sách chi trả DVMTR đã từng bước đi vào cuộc sống, tạo lập một nguồn lực tài chính bền vững, phục vụ công tác quản lý bảo vệ rừng, góp phần cải thiện sinh kế, tăng thu nhập, nâng cao đời sống của người dân sống gần rừng, ven rừng, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu. Thực hiện Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Kế hoạch số 20/KH-UBND ngày 26/3/2012 triển khai thực hiện Nghị định số 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó lựa chọn huyện Thường Xuân là huyện thí điểm để thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Căn cứ Thông tư số 60/2012/TT-BNNPTNT ngày 09/11/2012 của Bộ Nông