1.6. Kết cấu đề tài nghiên cứu
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, kiến nghị, nội dung chính của đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Quân đội – CN Huế.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Quân đội – CN Huế.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC KIỂM SOÁT RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG
DOANH NGHIỆP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá công tác kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng tmcp quân đội - chi nhánh Huế - 1
- Thực Trạng Công Tác Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Hoạt Động Cho Vay Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Tmcp Quân Đội - Cn Huế
- Tình Hình Lao Động Theo Giới Tính Tại Mb Huế Qua 3 Năm 2011 - 2013
- Tình Hình Dư Nợ Cho Vay Của Khdn Theo Phân Loại Tại Mb - Cn Huế Giai Đoạn 2011 - 2013
Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.
1.1. Kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
1.1.1. Khái niệm
Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán Australia (Australian Accounting Standards Board) định nghĩa: “ Kiểm soát là khả năng của một thực thể trong việc chi phối quá trình ra quyết định, trực tiếp hoặc gián tiếp, trong mối quan hệ với các chính sách tài chính và vận hành của một thực thể khác, qua đó tạo khả năng cho chủ thể đó vận hành theo các mục tiêu của chủ thể kiểm soát”.
Kiểm soát là chức năng cuối cùng của quy trình quản lý (một quy trình quản lý gồm 4 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát). Kiểm soát là hoạt động không thể thiếu được trong quy trình quản lý. Nếu việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo làm tốt mà chức năng kiểm soát không được thực hiện hoặc thực hiện không tốt thì kết quả có thể sẽ không đúng như kế hoạch đề ra, hoặc do những biến động của môi trường hoặc do chủ định của những người thực hiện.
Kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay liên quan đến những công việc mang tính tác nghiệp cụ thể (cho vay) mà một bộ phận nào đó của NH được giao thực hiện. Cơ chế kiểm soát là toàn bộ các chính sách, các bước kiểm soát và thủ tục kiểm soát được thiết lập nhằm quản lý và điều hành các hoạt động của NH.
Kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay có thể được định nghĩa như sau: Kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay là quá trình kiểm tra, giám sát, đo lường, chấn chỉnh hoạt động cho vay và khách hàng vay vốn nhằm giảm thiểu rủi ro, tối đa hóa lợi nhuận dự kiến của hoạt động cho vay.
1.1.2. Quy trình kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
Quy trình kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay được thực hiện theo các giai đoạn của quy trình cho vay. Quy trình cho vay là tổng hợp các nguyên
tắc, quy định của ngân hàng trong việc cho vay. Quy trình này bao gồm nhiều khâu và theo một trật tự nhất định
Trong các giai đoạn của quy trình cho vay trước giải ngân, trong giải ngân và sau giải ngân, quy trình kiểm soát đều gồm các bước sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu, nội dung, các chỉ số kiểm soát hoạt động cho vay.
Bước 2: Xác định hệ thống kiểm soát: chủ thể kiểm soát là ai, công cụ kiểm soát là gì,…
Bước 3: Tiến hành giám sát đo lường.
Bước 4: Đánh giá sự thực hiện: xem xét chính sách cho vay của ngân hàng có được thực hiện đúng theo quy định không, việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích không, thời hạn trả nợ gốc và lãi có đúng như Hợp đồng tín dụng không,…
Bước 5: Điều chỉnh.
Bước 6: Đưa ra kết luận.
Quy trình kiểm soát hoạt động cho vay là cơ sở kiểm soát tiến trình cho vay và để điều chỉnh chính sách cho vay phù hợp với thực tiễn. Thông qua công tác kiểm soát, nhà quản trị ngân hàng nhanh chóng xác định được những khâu công việc cần điều chỉnh, những quy định không còn phù hợp trong chính sách tín dụng, những bất hợp lý trong việc thực hiện quy trình, những bất cập trong đội ngũ nhân sự… để từ đó có những thay đổi nhằm tăng cường giám sát trong sử dụng vốn vay của khách hàng cũng như trong hoạt động cho vay nói chung.
1.1.3. Sự cần thiết và mục đích của kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay đặc biệt quan trọng đối với một ngân hàng, tuy nhiên nó cũng là hoạt động chứa đựng nhiểu rủi ro nhất. Hoạt động cho vay phải tuân theo nguyên tắc: “ sử dụng vốn đúng mục đích và hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng”. Nếu không tuân thủ nguyên tắc trên thì khoản cho vay của ngân hàng gặp rủi ro. “Rủi ro trong hoạt động cho vay là khả năng
xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc trả không đầy đủ khoản tiền vay”. Chính vì thế, kiểm soát hoạt động cho vay là rất cần thiết.
Mục đích của việc kiểm soát hoạt động cho vay là kip thời phát hiện và ngăn ngừa, xử lý những rủi ro trong quá trình cho vay, bảo đảm việc tuân thủ đúng pháp luật và các quy định hiện hành về việc cho vay với mục tiêu cuối cùng là giảm thiểu rủi ro của hoạt động cho vay, tối đa hóa lợi nhuận dự kiến từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Vì vậy, tăng cường kiểm soát hoạt động cho vay không phải là hạn chế cho vay tới mức tối thiểu mà là giúp hoạt động cho vay có hiệu quả hơn (giảm thiểu rủi ro, tối đa hóa lợi nhuận từ hoạt động cho vay).
1.1.4. Các yếu tố đánh giá chất lượng công tác kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
Khả năng nhận biết, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
Đây là tiêu thức quan trọng nhất để đánh giá chất lượng hoạt động kiểm soát tín dụng. Một hoạt động kiểm soát tín dụng chỉ có chất lượng cao khi giúp ngân hàng nhận biết rủi ro tín dụng càng sớm càng tốt.
Tác dụng của hoạt động kiểm soát là ở chỗ nó đo lường được mức độ rủi ro của từng khoản vay và của cả danh mục tín dụng, từ đó giúp NH đưa ra các biện pháp, hành động ứng xử kịp thời, thích hợp. Vì thế, hoạt đông kiểm soát tín dụng có chất lượng hay không thể hiện ở việc nó có góp phần hạn chế và ngăn ngừa rủi ro tín dụng hay không.
Mặc dù rủi ro tín dụng rất khó định lượng nhưng điều đó không có nghĩa là ngân hàng thờ ơ hay bỏ qua việc này. Bởi kiểm soát tín dụng tốt sẽ giúp quá trình quản trị rủi ro tín dụng tốt. Điều đó sẽ làm cho chính sách tín dụng của Ngân hàng trở nên an toàn hơn. Để đánh giá rủi ro tín dụng đối với một khách hàng, trước khi đưa ra quyết định cho vay, Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định tín dụng trước khi cho vay và sử dụng hệ thống định hạng tín nhiệm.
Mức độ thường xuyên, liên tục của hoạt động kiểm soát
Hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và xuyên suốt trong quá trình cho vay nhằm kịp thời nhận biết, thu thập thông tin, ngăn ngừa và loại bỏ những nguy cơ dẫn đến rủi ro sớm nhất có thể. Mặc dù ngân hàng đã đánh giá, thẩm định khách hàng trước khi cho vay nhưng sau khi cho vay, các rủi ro tín dụng vẫn có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.
Kiểm soát tín dụng phải được thực hiện có phương pháp và theo một quy trình được ngân hàng chuẩn hóa. Các kết quả kiểm tra cần phải đi liền với các biện pháp khắc phục, phòng ngừa. Tương ứng với mức độ rủi ro sẽ có mức theo dõi, kiểm soát phù hợp. Những khoản vay bị xếp hạng trong những hạng mục thấp trong hệ thống xếp hạng rủi ro sẽ làm thành “ danh mục cần theo dõi đặc biệt” để ngăn ngừa những tổn thất trong tương lại và tập trung tìm hướng thu hồi những khoản nợ này.
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới công tác kiểm soát rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay KHDN của NHTM
Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
- Môi trường kinh tế vĩ mô: Khi lạm phát cao, lãi suất cao các DN không có khả năng trả nợ ảnh hưởng đến công tác thu hồi nợ và gây khó khăn cho công tác kiểm soát của NH. Ngoài ra lãi suất thị trường, tỷ giá thị trường cũng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất NH làm công tác kiểm soát rủi ro cho vay của NH bị ảnh hưởng.
- Môi trường pháp lý: Hoạt động kiểm soát của NHTM cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các quy định và kiểm soát hoạt động cho vay của NHNN. Các chính sách điều chỉnh của Chính phủ thay đổi sẽ gây xáo động trong sản xuất kinh doanh của DN, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cũng như công tác kiểm soát khoản vay của NH.
- Môi trường chính trị xã hội: Tình hình chính trị trong nước (nội chiến, xung đột, bạo động,… ) là một nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến việc kiểm soát vốn vay của tất cả các DN, không ngoại trừ các NH. Mặt khác vấn đề dân trí, đạo đức xã hội cũng tác động tới hiệu quả làm ăn và sự suy thoái đạo đức xã hội, từ đó dẫn đến những rủi ro về vốn vay của NH và gây áp lực lên việc kiểm soát cho vay.
- Môi trường công nghệ: Nếu các NHTM có điều kiện tiếp cận được với các công nghệ hiện đại nhất trên thế giới nhất định hoạt động cho vay sẽ được tiến hành nhanh chóng, khi đó thu hút được nhiều KH và rủi ro là tối thiểu.
- Môi trường tự nhiên: Thiên tai dịch họa là những biến cố ngẫu nhiên nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Chính những rủi ro không lường trước được sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của KH vay vốn và dẫn đến rủi ro khách hàng không trả nợ đúng hạn. Do đó thu hồi vốn và hoạt động kiểm soát lại càng khó khăn hơn bao giờ hết.
Các yếu tố thuộc môi trường vi mô
- Khách hàng: Nếu một DN thỏa mãn được các điều kiện cho vay thì công tác thu hồi nợ sẽ dễ dàng hơn, việc kiểm soát khả quan hơn. Ngược lại, khi DN kinh doanh yếu kém, không có thiện chí trả nợ, thì lúc này công tác kiểm soát rất khó khăn, rủi ro là không thể lường trước được.
- Nhà cung cấp (KH gửi tiền, các TCTD khác, NHNN,…): NH sẽ lấy nguồn vốn này phục vụ cho vay và dựa vào thời hạn của đồng vốn để cân đối cho vay, kiểm soát cho vay hiệu quả đảm bảo làm sao cho vừa an toàn vừa sinh lời tối ưu nhất.
- Đối thủ cạnh tranh (các NHTM khác trên cùng địa bàn, các TCTD, các NH nước ngoài…) : Công tác kiểm soát rủi ro cho vay ngày càng được chú trọng để làm sao cho NH tăng thị phần cho vay nhưng vẫn đảm bảo an toàn tín dụng.
- Các tổ chức cung cấp hoạt động cho vay khác (các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính…) : Mặc dù dịch vụ cho vay chỉ là một lĩnh vực hoạt động rất nhỏ của các tổ chức này nhưng các NHTM cũng cần lưu ý tới.
Các yếu tố bên trong
- Chiến lược: Khi một NHTM có một chính sách cho vay hợp lý, các cán bộ ngân hàng sẽ thấu hiểu và thực hiện tốt việc kiểm soát.
- Tài chính: Tương ứng với nguồn tài chính phong phú mà các NH đáp ứng cho DN, hoạt động kiểm soát cũng đòi hỏi có quy mô rộng lớn và chặt chẽ hơn.
- Nguồn nhân lực: Yếu tố nguồn nhân lực xét cả về trình độ lẫn phẩm chất luôn là yêu cầu hàng đầu đối với mỗi NH vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoạt động và khả năng kiểm soát của NH.
- Công nghệ: Khi các trang thiết bị, phần mềm chuyên dụng được hỗ trợ tốt thì
việc ra quyết định của các cán bộ ngân hàng được nhanh chóng và chính xác hơn, giảm thiểu các rủi ro về đạo đức của cán bộ ngân hàng.
- Cơ cấu tổ chức: Một NHTM sẽ kiểm soát hoạt động cho vay tốt hơn nếu chức năng của các phòng ban, các bộ phận liên quan được quy định rõ ràng, hợp lý, không bị chồng chéo chức năng nhiệm vụ những vẫn có sự phối hợp nhịp nhàng, thống nhất có hiệu quả.
1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay là rủi ro phát sinh khi một hoặc các bên tham gia hợp đồng tín dụng không có khả năng thanh toán cho các bên còn lại. Đối với NHTM rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của các khoản cho vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi vay không đúng hạn. (Theo PGS.TS Nguyễn Thị Mùi, 2008).
1.2.2. Đặc điểm
Rủi ro tín dụng trong cho vay là loại rủi ro có tính tất yếu, tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động cho vay của NHTM.
Rủi ro tín dụng trong cho vay do những tình huống không phát hiện được khi cho vay và phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng cho vay.
Rủi ro tín dụng trong cho vay mang tính liên đới: trong cho vay, NH chuyển giao quyền sử dụng vốn cho các doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp này gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn dẫn đến mất khả năng hoàn trả nợ hốc và lãi làm NH gặp rủi ro khi cho vay.
Rủi ro tín dụng trong cho vay có tính chất đa dạng và phức tạp.
1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
Rủi ro tín dụng
trong hoạt động cho vay
Rủi ro giao
dịch
Rủi ro danh
mục
Rủi ro lựa
chọn
Rủi ro bảo
đảm
Rủi ro
nghiệp vụ
Rủi ro nội
tại
Rủi ro tập
trung
Sơ đồ 1.1: Phân loại rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay Rủi ro giao dịch:
Là một hình thức của rủi ro tín dụng trong cho vay mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá KH.
Rủi ro giao dịch gồm:
-Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích cho vay, khi NH lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
-Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
-Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản cho vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
Rủi ro danh mục:
Là một hình thức của rủi ro tín dụng trong cho vay mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành hai loại:
-Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
-Rủi ro tập trung: là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, một lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.4. Hậu quả của rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
Rủi ro làm phát sinh tăng chi phí giảm lợi nhuận: Khi các NH cho vay xuất hiện những khoản nợ quán hạn, các NH cho vay phải tìm cách thu hồi nợ. Việc thu hồi nợ quá hạn làm tăng khoản chi phí về đi lại để lấy nợ. Các khoản nợ quá hạn làm chậm lại vòng quay vốn tín dụng, làm mất đi các khoản đầu tư khác của NH, đó là chưa kể đến sự ảnh hưởng lớn của nợ quá hạn với tâm lý của cán bộ cho vay. Tất cả những vấn đề này làm giảm thu nhập tiềm ẩn và làm tăng chi phí cho các NH cho vay.
Rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay còn gây ra tổn thất gián tiếp cho các ngân hàng khác: NH có ảnh hưởng lớn đến chính sách tiền tệ, đến công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nếu có sự thất thoát lớn trong hoạt động tín dụng dù chỉ ở một NH cho vay trực thuộc, không khắc phục kịp thời thì có thể gây nên “ phản ứng dây chuyền” đe dọa đến an toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống NH, gây hậu quả rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế.
Rủi ro làm giảm uy tín của các NH cho vay: Các NH cho vay khi gặp rủi ro, kinh doanh kém hiệu quả, uy tín sẽ bị giảm sút trên thị trường. Đây là sự thiệt hại vô hình mà không thể lường được giá trị.
Rủi ro cho vay làm giảm khả năng thanh toán của NH: Rủi ro cho vay đã khiến cho việc hoàn trả tiền gửi của KH gặp nhiều khó khăn. Các khoản đầu tư, cho vay bị thất thoát hay chậm thu hồi trong khi NH vẫn phải đều đặn trả lãi vốn huy động theo đúng kỳ hạn. Chính điều này đã làm hạn chế khả năng thanh toán của NH.
1.3. Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.3.1. Ngân hàng thương mại
a. Khái niệm
Theo Điều 4, Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 định nghĩa: “ Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận”
Về hoạt động ngân hàng, tại Điều 20, Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QH10 đã định nghĩa: “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”
Như vậy, NHTM là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi dưới nhiều hình thức khác nhau và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán cho các chủ thể trong nền kinh tế, nhằm mục tiêu lợi nhuận.
b. Chức năng của ngân hàng thương mại Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất và quan trọng của NHTM. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối trung gian đứng ra tập trung, huy động các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của những người thiếu vốn, biến nó thành nguồn vốn để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, tiêu dùng… cho các đối tượng có nhu cầu.
Chức năng trung gian thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp
cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng.
Chức năng tạo tiền
Chức năng tạo tiền được thực hiện trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ,…
c. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại Hoạt động huy động vốn
NHTM là một định chế tài chính trung gian cung cấp vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp và dân cư trong nền kinh tế. Chính vì vậy, NHTM phải tìm mọi biện pháp để thu hút động viên các nguồn lực, các bộ phận vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế.
Như ta thấy, hoạt động kinh doanh của NHTM chủ yếu dựa vào các nguồn vốn huy động. Cho nên công tác huy động vốn được xem là một hoạt động cơ bản và chủ yếu của NHTM. Nếu không có nguồn vốn huy động này thì NHTM không thể mở rộng tín dụng, không thể cạnh tranh và tồn tại.
Hoạt động cấp tín dụng
NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN. Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Hoạt động khác
Ngoài huy động và cho vay, NH còn có các hoạt động khác như: góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ và bảo hiểm, nghiệp vụ ủy thác và đại lý, dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động NH.
1.3.2. Hoạt động cho vay
a. Khái niệm
“ Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi” ( TS. Nguyễn Minh Kiều, 2009).
Như vậy, bản chất của cho vay là một giao dịch về tiền hoặc tài sản trên cơ sở có sự hoàn trả cả gốc và lãi. Trong đó, sự hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất cho vay, là nguyên tắc để phân biệt phạm trù cho vay với phạm trù cấp phát của NHNN.
b. Phân loại
Có nhiều tiêu thức phân loại hoạt động cho vay, tuy nhiên trên thực tế người ta thường phân loại cho vay theo các tiêu thức sau:
-Theo thời hạn cho vay
- Cho vay ngắn hạn: là khoản vay có thời hạn dưới 1 năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
- Cho vay trung hạn: là khoản vay có thời hạn cho vay từ 1 – 5 năm. Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
- Cho vay dài hạn: là khoản vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 – 30 năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
-Theo hình thức đảm bảo tiền vay
Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Loại cho vay này áp dụng cho những khách hàng mới, có hệ số tín nhiệm không cao.
-Theo mục đích sử dụng
Cho vay bất động sản;