Đánh giá chất lượng dịch vụ cho vay hộ nông dân tại pgd an hòa chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã hương trà, tỉnh Thừa Thiên Huế - 2


tiến hành sử dụng một số phương pháp phân tích sau:

- Thống kê mô tả: Mô tả mẫu điều tra, tìm hiểu đặc điểm của đối tượng điều tra, mục đích, thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng của khách hàng. Kết quả phân tích mô tả sẽ là cơ sở để đưa ra những nhận định ban đầu và tạo nền tảng để đưa ra những giải pháp sau này.

- Phân tích thang đo: Đánh giá độ tin cậy bằng hệ số Cronbach’s Alpha. Đây là một phép kiểm định để kiểm tra tính chặt chẽ và tương quan giữa các biến quan sát. Nó cho phép người phân tích loại bỏ những biến không phù hợp và hạn chế biến rác trong mô hình nghiên cứu. Đồng thời, hệ số này sẽ giúp đánh giá độ tin cậy của các thang đo. Những biến có Alpha nhỏ hơn 0.6 hoặc hệ số tương quan biến tổng nhỏ hơn

0.3 sẽ bị loại khỏi mô hình.

- Phân tích nhân tố khám phá: Dùng để rút gọn một tập gồm nhiều biến quan sát phụ thuộc lẫn nhau thành một tập biến ( gọi là nhân tố) ít hơn để chúng có ý nghĩa hơn nhưng vẫn chứa đựng hầu hết nội dung thông tin của tập biến ban đầu. Trong các tham số thống kê của phân tích nhân tố thì trị số KMO là một chỉ số dùng để xem xét sự thích hợp của phân tích nhân tố. Trị số này có giá trị từ khoảng 0.5 đến 1 là điều kiện để phân tích nhân tố phù hợp.

- Kiểm định giá trị trung bình của các nhân tố mới hình thành.

- Phân tích hồi quy đánh giá mức độ tác động của các nhân tố mới hình thành

đến sự hài lòng của khách hàng.

6. Kết cấu đề tài

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 60 trang tài liệu này.

Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng chất lượng dịch vụ cho vay hộ nông dân tại PGD An Hòa Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Hương Trà.

Đánh giá chất lượng dịch vụ cho vay hộ nông dân tại pgd an hòa chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã hương trà, tỉnh Thừa Thiên Huế - 2

Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay hộ nông dân tại PGD An Hòa Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Hương Trà.


PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


1.1. Tín dụng

1.1.1. Khái niệm về tín dụng

Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ La tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng.

Trên cở sở tiếp cận tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau: “Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán” ( Lê Văn Tề, 2007).

1.1.2. Vai trò của tín dụng

Tín dụng có vai trò góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển:

- Thông qua hoạt động tín dụng có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, qua đó làm kích thích sản xuất như là các doanh nghiệp vay vốn để sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng, mở rộng nhà xưởng,…

- Mặt khác thông qua tín dụng còn có thể đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh toán, có thể thanh toán không phân biệt không gian, thời gian làm cho hàng hóa dịch chuyển từ nơi này đến nơi khác, dẫn đến kích thích hàng hóa lưu thông, phát triển.

Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ và giá cả: Giúp vận chuyển tiền tệ từ nơi thừa sang nơi thiếu, tạo sự cân bằng tiền tệ, không gây ra lạm phát. Do đó, các nhà đầu tư sẽ bỏ tiền vào đầu tư cho nền kinh tế làm kích thích hàng hóa phát triển về chủng loại, mẫu mã, chất lượng, dịch vụ chăm sóc,...làm cho nền kinh tế ổn định về giá cả.


Tín dụng giúp góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm, ổn định trật tự xã hội: Tín dụng giúp cho các tổ chức, doanh nghiệp có đủ nguồn vốn kịp thời cho quá trình sản xuất kinh doanh, đầu tư mới, dẫn đến việc tuyển thêm lao động trong nền kinh tế làm dịch chuyển lao động từ khu vực này sang khu vực khác. Từ đó góp phần ổn định đời sống cho người lao động, giảm tệ nạn xã hội, kích thích nhu cầu tiêu dùng của người dân…

Tín dụng góp phần tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội: Ngân hàng huy động tất cả các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào nguồn quỹ của ngân hàng, làm cho lượng tiền mặt lưu thông giảm. Bên cạnh đó một khối lượng tiền cho vay qua các tổ chức kinh tế, cá nhân thể hiện thông qua tài khoản, làm cho lượng tiền lưu thông giảm giúp tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội.

1.2. Tín dụng ngân hàng

1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân

hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.

Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dung:

- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng;

- Sự chuyển nhượng này có thời hạn hay mang tính chất tạm thời;

- Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.

1.2.2. Các loại tín dụng ngân hàng

1.2.2.1. Xét theo mục đích

Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp; Cho vay tiêu dùng cá nhân;

Cho vay mua bán bất động sản;

Cho vay sản xuất nông nghiệp;

Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…


1.2.2.2. Xét theo thời hạn cho vay

Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm. Mục đích của

loại cho vay này thường nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.

Cho vay trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục đích của

loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.

Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.

1.2.2.3. Căn cứ vào tính chất đảm bảo

Cho vay không có đảm bảo: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố, hay bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.

Cho vay có đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo cho vay tiền như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu thứ nhất thiếu chắc chắn.

1.2.2.4. Căn cứ vào phương thức cấp tín dụng

Cho vay theo món vay;

Cho vay theo hạn mức tín dụng;

Cho vay theo hạn mức thấu chi.

1.2.2.5. Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay

Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ 1 lần khi đáo hạn;

Cho vay có nhiều kì hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp;

Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy khả năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào. (Nguyễn Minh Kiều, 2008)

1.3. Khái quát về hộ nông dân

1.3.1. Khái niệm hộ nông dân

Có nhiều quan điểm khác nhau về HND, tùy theo cách nhìn nhận và phương

pháp nghiên cứu. Sau đây là một số quan điểm chủ yếu:

Hiểu theo cách đơn giản thì HND là những người sống ở nông thôn, tham gia lao động chủ yếu trong các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp và các ngành nghề phi


nông nghiệp.

“Hộ nông dân là các nông hộ thu hoạch trên các phương tiện sống từ đất, sử dụng chủ yếu là lao động gia đình trong sản xuất nông trại nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với trình độ hoàn chỉnh không cao” (Đào Thế Tuấn, 1997).

Khái niệm HND có thể hiểu là một nhóm người sống trong cùng một gia đình, tham gia lao động sản xuất nông nghiệp nhằm thỏa mãn nhu cầu của chính bản thân các hộ gia đình chứ không phải dựa trên chế độ trả công lao động đối với các thành viên của nó. Do đặc tính tự cung tự cấp và những hạn chế nhất định về sức sản xuất, trình độ kỹ thuật công nghệ nên kinh tế HND chỉ dừng lại ở mức đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và sự cân bằng khả năng lao động mà chưa có hoạch toán được lợi nhuận như các xí nghiệp, tổ sản xuất,…

Đối với đặc điểm kinh tế, điều kiện sản xuất của nước ta thì HND được hiểu là một gia đình hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn được kê khai trong bảng hộ khẩu riêng bao gồm một người làm chủ hộ và các thành viên sống trong hộ gia đình ấy. Trong HND thường có người lao động chính (cha hoặc mẹ..), chịu trách nhiệm phân công lao động và những người lao động phụ (con cái, những người có ít sức lao động,..) phần lớn các thành viên phải làm tất cả các công việc (trồng trọt, chăn nuôi, nghề phụ,..) dưới sự phân công của chủ hộ, và có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với sự phát triển kinh tế Hộ.

1.3.2. Đặc điểm hộ nông dân ở nước ta

Hộ nông dân là thành phần kinh tế cơ sở, được pháp luật thừa nhận. Trong nền

kinh tế HND đóng vai trò vừa là đơn vị sản xuất vừa là đối tượng tiêu dùng sản phẩm.

Hoạt động của HND không chỉ giới hạn trong hoạt động nông nghiệp mà còn mở rộng ra các hoạt động phi nông nghiệp như nghề thủ công truyền thống: thêu, đan, dệt cói,… nhưng nhìn chung khối lượng sản phẩm của HND thường không lớn. Mối quan hệ giữa các HND với thị trường tùy thuộc vào trình độ phát triển sản xuất HND và đặc biệt hoạt động chung của Hộ tùy thuộc vào hoạt động của các thành viên, thành viên càng nhiều thì sản phẩm tạo ra sẽ nhiều hơn, lao động chính lại có mối quan hệ với việc sở hữu tư liệu sản xuất, giấy phép kinh doanh hay đất đai sử dụng hợp pháp


và việc phân công lao động giữa các thành viên.

Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là phụ thuộc vào tự nhiên và tính thời vụ nên tính rủi ro của các Hộ thường cao nhưng khả năng khắc phục lại hạn chế. Mặc khác, do việc ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp còn hạn chế nên sản lượng thường không cao.

1.3.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với quá trình phát triển kinh tế HND

1.3.3.1. Khái niệm về tín dụng hộ nông dân

Tín dụng HND là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng và một bên là HND. Hình thức tín dụng này đã có từ lâu trên thế giới nhưng ở Việt Nam nó chỉ thực sự xuất hiện khi có nghị quyết 10 của bộ chính trị với sự thừa nhận quyền tự chủ của thành phần kinh tế cá thể. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong quan hệ xã hội, có thừa kế, có quyền sở hữu tài sản, có phương án kinh doanh hiệu quả, có tài sản thế chấp thì HND mới có khả năng, đủ tư cách để tham gia quan hệ tín dụng với ngân hàng. Đây cũng là điều kiện để HND đáp ứng được điều kiện vay vốn ngân hàng.

1.3.3.2. Tính đặc thù của tín dụng hộ nông dân

Tín dụng hộ nông dân có một vài đặc điểm riêng biệt đáng chú ý sau:

Đặc điểm tuần hoàn và luân chuyển vốn tín dụng nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu đến tính thời vụ trong nông nghiệp

Khác với các ngành nghề sản xuất khác, sản xuất nông nghiệp có chu kỳ sản xuất tương đối dài và mang tính thời vụ. Tính mùa vụ quyết định đến thời điểm cho vay và thu nợ của ngân hàng. Nếu ngân hàng chỉ tập trung cho vay các chuyên ngành hẹp như cho vay một số cây, con nhất định thì phải tổ chức cho vay tập trung vào thời điểm nhất định của năm.

Chi phí tổ chức cho vay cao

Đối với tín dụng HND do số lượng món vay nhiều, số tiền mỗi món nhỏ, phân bố ở khắp nơi, địa hình đi lại gặp nhiều khó khăn nên đòi hỏi chi phí giao dịch của ngân hàng cao. Ngân hàng phải mở chi nhánh, địa bàn giao dịch, tổ lưu động cho vay tại xã. Mặt khác, do đặc thù kinh doanh của HND có độ rủi ro cao nên chi phí cho dự phòng rủi ro là tương đối cao so với các ngành khác. Do đó, việc khống chế mức chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra giống nhau là một bất lợi cho các ngân hàng


tham gia vào thị trường tín dụng HND.

Tín dụng nông nghiệp có nhiều rủi ro hơn tín dụng công nghiệp, dịch vụ

Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, có liên quan đến đối tượng sản xuất là cơ thể sống với chu kỳ sinh học khác nhau, tùy thuộc vào từng loại cây trồng, vật nuôi, kết quả sản xuất không chắc chắn như công nghiệp và dịch vụ.

Môi trường tự nhiên ảnh hưởng đến thu nhập và khả năng trả nợ của HND

Nguồn trả nợ ngân hàng chủ yếu là nguồn thu từ bán nông sản và sản phẩm chế biến từ nông sản. Như vậy, sản lượng thu được là yếu tố quyết định khả năng trả nợ của HND, mà sản lượng nông sản lại chịu ảnh hưởng của môi trường tự nhiêu rất lớn.

1.3.3.3. Các loại cho vay hộ nông dân

Căn cứ vào mục đích sử dụng

Cho vay trồng trọt: là loại cho vay để trang trải các khoản chi phí như giống cây

trồng, làm đất, phân bón, công lao động,..

Cho vay chăn nuôi: là loại cho vay để trang trải các khoản chi phí con giống,

thức ăn, thuốc phòng bệnh, làm chuồng trại, công lao động,..

Cho vay ngành nghề được sử dụng để trang trải các chi phí ngành nghề tiểu thủ

công nghiệp, ngành nghề truyền thống ở nông thôn.

Căn cứ vào thời hạn cho vay

Cho vay ngắn hạn: có thời hạn tối đa 12 tháng được sử dụng để bổ sung vốn lưu động, chi phí sản xuất thời vụ, dịch vụ, cho vay lưu vụ,..

Cho vay trung hạn: có thời hạn từ 12 đến 36 tháng được sử dụng để trồng cây lưu gốc, chăn nuôi gia súc, gia cầm, xây dựng chuồng trại, mua sắm máy cày, máy bơm nước,…

Cho vay dài hạn: có thời hạn trên 36 tháng được sử dụng đối với cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm, mua sắm máy móc, xây dựng, mở rộng cơ sở sản xuất và các tài sản cố định khác phục vụ sản xuất nông nghiệp.

1.3.3.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với quá trình phát triển kinh tế HND

Ở nước ta hiện nay, thiếu vốn là hiện tượng thường xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế nói chung và với HND nói riêng. Vì vậy, vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Vai trò này được thể hiện như sau:


Một là, tín dụng ngân hàng giúp điều hòa vốn nhằm đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp được ổn định. Khi nông dân cần có vốn để sản xuất thì ngân hàng là người bạn đắc lực cung cấp vốn cho HND để trang trải các chi phí cần thiết, ngược lại khi thu hoạch, nông dân bán sản phẩm, có một nguồn thu nhập nhất định, tạm thời lượng tiền đó chưa biết sử dụng vào mục đích gì thì ngân hàng sẽ tiếp nhận nguồn nhàn rỗi đó dưới hình thức tiết kiệm.

Hai là, thông qua việc khuyến khích các tổ chức tín dụng mở mạng lưới ở các vùng nông thôn, quy định mức lãi suất hợp lý cho vay HND, nhà nước thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy các Hộ sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và lưu thông, định hướng phát triển kinh tế HND ở những vùng trọng điểm, mở mang các ngành nghề thực sự cần thiết và mang lại hiệu quả cho bản thân HND cũng như cho nền kinh tế.

Ba là, tín dụng HND góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế HND theo hướng sản xuất hàng hóa, nhờ đó sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường giúp thu hồi vốn tín dụng của ngân hàng. Tín dụng nông nghiệp tạo điều kiện khuyến khích HND mạnh dạn áp dụng biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tạo đất đai để tạo ra năng suất, chất lượng tốt hơn, góp phần tăng tỷ trọng hàng hóa, hạ giá thành sản phẩm. Từ đó, không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài.

Bốn là, tín dụng ngân hàng trang bị cho nông dân phương tiện, cơ sở vật chất, công nghệ hiện đại, tạo cho người nông dân không ngừng nâng cao trình độ sản xuất, tạo tâm lý tiết kiệm tiêu dùng, đảm bảo hiệu quả xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống tinh thần, phẩm chất cho người lao động ở nông thôn.

Năm là, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống, ngành nghề mới, giải quyết việc làm cho người lao động. Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy được nội lực của kinh tế hộ và tín dụng ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành nghề mới thu hút, từ đó góp phần phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến.

Sáu là, tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế, xóa bỏ dần nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn, thúc đẩy sản xuất phát triển, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, các hộ nghèo trở nên khấm khá hơn, các hộ khá trở nên giàu hơn. Từ đó, các tệ nạn xã hội dần được xóa bỏ, nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn của lực lượng lao động.


1.4. Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hoạt động cho vay hộ nông dân

1.4.1. Một số quan niệm về chất lượng tín dụng

Trong hoạt động kinh doanh, chất lượng là yếu tố quyết định đến sự tồn tại lâu dài của một đơn vị kinh doanh. Trong hoạt động sản xuất, với các sản phẩm vật chất người ta cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng sản phẩm.

- Chất lượng sản phẩm được đánh giá thông qua việc so sánh với chất lượng của các đối thủ cạnh tranh cùng loại đi kèm với chi phí và giá cả.

- Tiêu chuẩn quốc tế ISO quy định rằng một sản phẩm đạt chuẩn phải đáp ứng đủ các yêu cầu về tính chất, đặc trưng, hình thức theo các tiêu chuẩn mà các chuyên gia đã nêu ra.

- Chất lượng là một cái gì đó tốt mà thỏa mãn được nhu cầu và phù hợp với yêu cầu của người sử dụng và theo đó mang lại cảm giác hài lòng khi sử dụng sản phẩm.

- Hay có thể hiểu chất lượng là cái gì đấy phù hợp với yêu cầu, có độ tin cậy với

mức chi phí thấp và giá cả phù hợp với thị trường.

NHTM nói chung hay NHNo&PTNT nói riêng cũng là đơn vị hoạt động kinh doanh trong xã hội nhưng do tính đặc thù hoạt động kinh doanh tiền tệ nên sản phẩm của nó không phải là sản phẩm vật chất mà là sản phẩm vô hình. Tuy cũng dựa trên những quan niệm nêu trên nhưng vẫn có một số đặc trưng khác biệt.

Khi nói đến chất lượng tín dụng của một ngân hàng, hầu như người ta quan tâm đến doanh số cho vay, tình hình dư nợ, dư nợ xấu, nợ quá hạn của ngân hàng đó. Nó phản ánh đúng thực trạng hoạt động của một ngân hàng, ngân hàng có đầu tư đúng đối tượng, dự án cho vay có phát huy được tác dụng, đưa lại hiệu quả cho cả khách hàng và ngân hàng hay không? Nếu số dư nợ xấu, nợ quá hạn lớn thì ngân hàng cần đánh giá xem xét lại hoạt động của ngân hàng và có hướng giải quyết phù hợp. Thông thường để thuận lợi cho hoạt động theo dõi và đánh giá chất lượng, ngân hàng thường thực hiện phân loại nợ, gồm 5 nhóm:

- Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn là các khoản nợ trong hạn hoặc quá hạn dưới 10 ngày.

- Nhóm 2: Nợ cần chú ý là gồm các khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày, các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu.

- Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn là gồm các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180


ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu hoặc được miễn giảm lãi do do khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn.

- Nhóm 4: Nợ nghi ngờ là các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần hai, các khoản thực hiện theo cam kết quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn cơ cấu lại lần đầu…

- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn là các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn lần thứ ba trở lên, nợ khoanh, nợ cần xử lý,..

Chất lượng tín dụng của ngân hàng được hiểu là khả năng tập hợp các đặc tính hoạt động tín dụng của nó để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và các bên có liên quan, đó là các đối tượng : khách hàng vay tiền, bản thân ngân hàng, nền KT-XH nói chung. Nó có nội dung rất rộng, cần được xem xét về nhiều mặt và là đại lượng luôn biến động theo thời gian, không gian và điều kiện sử dụng của nhu cầu.

1.4.2. Chất lượng tín dụng trên quan điểm của ngân hàng

Chất lượng tín dụng phản ánh năng lực hoạt động và uy tín của một ngân hàng nên đứng trên phương diện ngân hàng thì ngân hàng xem xét nó gắn liền với lợi ích hoạt động của bản thân thông qua việc đo lường, phân tích khía cạnh chủ yếu:

- Xét khả năng đem lại và mở rộng hoạt động sinh lời của nguồn vốn

Lợi nhuận của NHTM có được thông qua sự chênh lệch lãi suất giữa hoạt động huy động vốn và hoạt động cho vay, đây là nguồn thu chủ yếu của NHTM. Vì là nguồn thu chủ yếu nên yêu cầu nâng cao chất lượng tín dụng là hết sức cần thiết với kỳ vọng mang lại lợi nhuận cao hơn trong tương lai. Hoạt động cho vay của ngân hàng chỉ mang lại hiệu quả, lợi nhuận cho ngân hàng khi ngân hàng thực hiện công tác thẩm định tín dụng, phân tích rủi ro sâu sát với thực tế của đối tượng vay, có các chính sách và biện pháp quản lý rủi ro hợp lý, có chính sách vay hợp lý với từng đối tượng và phải hoạch toán chi phí kinh doanh hợp lý tiết kiệm,…

Lợi nhuận của ngân hàng được phản ánh thông qua một vài chỉ tiêu:

o Chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng tài sản: ROA=Lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản

o Chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu: ROE=Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu

o Ngoài ra còn có chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi biên, tỷ suất lợi nhuận hoạt động biên,…


- Việc nâng cao năng lực cạnh tranh ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tín dụng.

Trong thị trường nông thôn, NHNo&PTNT phải cạnh tranh với nhiều tổ chức tín dụng hay với các ngân hàng thương mại quốc doanh khác luôn muốn mở rộng thị trường hoặc với ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng nước ngoài đang xuất hiện ngày càng nhiều. Điều đó làm thị trường của NHNo&PTNT bị thu hẹp hơn kéo theo lợi nhuận giảm. Nếu ngân hàng không chú trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng nhằm giữ ổn định thị phần và mở rộng thị trường nâng cao năng lực cạnh tranh thì họ có thể mất khách hàng, giảm uy tín của ngân hàng. Ngày nay, nhu cầu của khách hàng ngày càng tăng nên khả năng cạnh tranh trong ngân hàng hiện đại phụ thuộc nhiều vào trình độ công nghệ, tính tiện ích, đa dạng của sản phẩm và đặc biệt phong cách phục vụ, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên, trình độ quản lý ngân hàng.

- Duy trì sự ổn định trong hoạt động ngân hàng

Một ngân hàng cần thiết phải được một lượng vốn và vòng quay vốn tín dụng ổn định nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng tránh tình trạng thâm hụt về nguồn vốn làm giảm uy tín của ngân hàng dẫn đến sự khủng hoảng, nghiêm trọng hơn có thể gây sụp đổ ngân hàng. Để có được sự tăng trưởng bền vững, mỗi ngân hàng cần xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh lâu dài, đảm bảo ổn định nguồn vốn, xây dựng quan hệ tốt với khách hàng truyền thống, xây dựng thương hiệu mạnh đồng thời có kế hoạch mở rộng thị trường theo những bước đi vững chắc. Phát triển bền vững trên những nội dung:

o Đảm bảo an toàn về vốn, an toàn về tín dụng và đầu tư, tính thanh khoản.

o Nâng cao chất lượng tài sản Có.

o Kiểm soát và nâng cao công tác phòng ngừa rủi ro.

1.4.3. Chất lượng tín dụng trên quan điểm của khách hàng

Đối với khách hàng khi thực hiện hoạt động vay vốn, họ chỉ cảm nhận được chất lượng dịch vụ thông qua mức độ thỏa mãn của bản thân. Trong hàng loạt các sản phẩm dịch vụ giống nhau trên thị trường, thậm chí cùng một mức lãi suất nhưng khách hàng lại lựa chọn sử dụng dịch vụ ở những ngân hàng phù hợp nhất với yêu cầu của họ cũng như chất lượng phục vụ nhanh, chu đáo hay uy tín của ngân hàng, hoặc có thể do


thói quen. Do đó, trên quan điểm của khách hàng thì chất lượng tín dụng sẽ được nhìn nhận trên những khía cạnh:

- Mức lãi suất vay, biểu phí phục vụ phải phù hợp tức là ở mức mà khách hàng cảm thấy có thể chấp nhận được, cả khách hàng và ngân hàng cùng đạt được lợi ích.

- Thủ tục vay vốn nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ nhằm mang lại cho khách hàng nhiều sự lựa chọn phù hợp nhất với nhu cầu của bản thân như cho vay trả nợ từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay trả góp, cho vay hợp vốn…bên cạnh đó là công tác tư vấn, trợ giúp, khắc phục lỗi trong quá trình cung cấp tín dụng.

- Hệ thống kênh phân phối của ngân hàng thuận lợi, được phân bố rộng rãi, đặc

biệt yêu cầu về tính hiện đại ngày được chú trọng.

- Phong cách giao dịch của ngân hàng, đặc biệt trong giao dịch ngân hàng hiện nay thì yếu tố này lại đóng vai trò quan trọng nhất. Một thái độ giao dịch thiện chí có thể gây nên những thông tin lan truyền không đáng, khiến ngân hàng bị mất khách hàng, tổn thất về lợi nhuận nhiều khi không ước tính được. Phong cách giao dịch tốt sẽ gây được sự tin cậy của khách hàng và yếu tố này sẽ giúp nâng cao chất lượng ngân hàng trong tâm trí khách hàng.

1.4.4. Chất lượng tín dụng trên phương diện nền kinh tế- xã hội

Hoạt động tín dụng ngân hàng không chỉ mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, hỗ trợ đắc lực cho hoạt động SXKD của người vay mà còn góp phần tích cực vào việc tăng trưởng KT-XH của đất nước thông qua việc phân bổ nguồn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu để nó được sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Trên bình diện nền kinh tế, chất lượng tín dụng của một ngân hàng được đánh giá dựa trên mức độ đóng góp vào sự cải thiện tốc độ tăng trưởng kinh tế, qua mức độ thu hút vốn và đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của doanh nghiệp, của người dân và của nền kinh tế.

- Một ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt khi hoạt động tín dụng mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, có được vị thế cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng và nền kinh tế, tạo được thương hiệu riêng và độ tin cậy cao trong dân chúng.

- Góp phần tích cực vào việc thực thi chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, ổn định lượng tiền cung ứng trên thị trường. Thực hiện tốt các hoạt động trên thì chất

Xem tất cả 60 trang.

Ngày đăng: 19/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí