Mức Độ Sử Dụng Thuốc Bvtv Cho Lúa Trên Đất Chuyên Lúa


Qua điều tra khảo sát cho thấy, lượng phân vô cơ người dân sử dụng cho các loại cây trồng tương đối khác nhau:

- Đối với lúa: Lượng đạm, lân và kali bón đều nằm trong tiêu chuẩn cho phép, phân chuồng được bón còn ở mức thấp;

- Đối với ngô: Lượng đạm bón cho ngô lại ở mức thấp hơn khuyến cáo đối với cả phân hữu cơ và vô cơ;

- Dưa chuột, bắp cải, rau cải là những cây màu cần đầu tư phân bón cao thì người dân sử dụng phân bón thấp hơn tiêu chuẩn khuyến cáo;

- Đáng lưu ý nhất trong các loại cây trồng về lượng phân bón đó là cây đậu tương, khoai tây, khoai lang: Các loại phân vô cơ được sử dụng đều vượt giới hạn tiêu chuẩn, cụ thể: Lượng đạm bón cho cây gấp 1,2 - 1,5 lần, lân gấp 1,2 - 1,3 lần và kali gấp 1,3 -1,7 lần.

Đối với phân hữu cơ: Qua điều tra khảo sát cho thấy, 100% số hộ có sử dụng phân chuồng. Tùy thuộc vào từng hộ gia đình mà lượng phân chuồng khác nhau, nếu gia đình nuôi lượng gia súc gia cầm lớn lượng phân được sử dụng cho ruộng sẽ nhiều, ngược lại, lượng phân sẽ ít nếu gia đình họ nuôi ít vật nuôi. Lượng phân bón này dao động khoảng 7,4 - 12,0 tấn/ha. Đa số các loại cây trồng có lượng bón thấp hơn lượng bón khuyến cáo. Điều này có thể gây thoái hóa đất bởi, phân hữu cơ đóng 1 vai trò quan trọng trong việc cải thiện độ phì nhiêu của đất. Bón phân hữu cơ chính là trả lại lượng dinh dưỡng cây trồng đã lấy đi qua quá trình sinh trưởng và phát triển. Việc bón phân hữu cơ sẽ giúp đất tơi xốp, bổ sung dinh dưỡng và tăng năng suất cây trồng. Nếu không bón đủ lượng phân hữu cơ cần thiết, đất sẽ xấu và mất đi độ phì nhiêu ban đầu.

Như vậy, thông qua kết quả điều tra, có thể thấy rằng không có hiện tượng lạm dụng phân vô cơ nhưng đã sử dụng lượng phân bón N, P cho một số loại cây vượt mức khuyến cáo như: lúa, lạc, đậu tương, khoai lang, khoai tây. Vậy là


sẽ còn dư một lượng lớn phân bón cây không sử dụng. Điều này sẽ tiềm ẩn nguy cơ thoái hóa đất nếu tiếp tục canh tác lâu dài.

Bảng 4.4. Lượng phân bón theo loại hình sử dụng đất

Đơn vị tính: kg/ha

Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra, 2019

Tổng lượng phân bón trong năm theo cơ cấu cây trồng tiêu biểu tại huyện

Đối với phân chuồng: Lượng phân bón còn thấp, cần có các biện pháp bổ sung để trả lại lượng dinh dưỡng đã mất đi cho đất sau m i vụ thu hoạch, cải tạo độ phì nhiêu của đất.


TT

Cơ cấu cây trồng

Phân hữu cơ

N

P2O5

K2O

1

Ngô - Đậu tương - Lạc

22.354,8

204,9

182,7

204,7

2

Lạc - Ngô

14.371,2

137,2

124,7

134,2

3

Lạc - Lạc - Khoai tây

25.368,1

267,9

194,8

214,0

4

Lúa xuân - Lúa mùa

17.689,0

179,0

136,8

156,8

5

Lúa xuân - Lúa mùa - Đậu tương

25.672,6

246,7

194,8

227,3

6

Lúa xuân - Lúa mùa - Bắp cải

28.488,0

283,7

211,7

246,4

7

Lúa xuân - Lúa mùa - Dưa chuột

29.722,6

303,8

247,3

257,8

8

Lúa xuân - Lúa mùa - Hành tây

26.229,0

289,7

205,2

221,9

9

Lúa xuân - Lúa mùa - Khoai lang

25.552,3

257,6

203,5

217,2

10

Lúa xuân - Lúa mùa - Khoai tây

27.466,8

264,4

208,4

234,5

11

Lúa xuân - Lúa mùa - Ngô đông

25.065,7

248,8

190,9

215,3

12

Lúa xuân - Lúa mùa - Rau cải

26.181,6

284,0

208,8

245,0

13

Lạc - Ngô - Khoai tây

27.884,0

298,5

220,3

233,8

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Đánh giá ảnh hưởng của hoạt động sản xuất nông nghiệp đến môi trường đất tại huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn - 9


Văn Lãng, như sau:

- Trong 3 loại hình sử dụng đất chính ta thấy rõ rằng loại hình sử dụng: Lúa - Lúa - Màu là sử dụng lượng phân bón nhiều nhất. Đây là nhóm cơ cấu trong những năm gần đây mang lại hiệu quả kinh tế tương đối cao cho nông dân


Văn Lãng. Cho nên người dân rất quan tâm đầu tư thâm canh. Do vậy, điều đáng lo ngại là người nông dân thường bón phân một cách tùy tiện, không theo một tỷ lệ chỉ định nào, hay bón không theo thời kỳ thích hợp nên dẫn đến hiệu quả kinh tế cây trồng đạt được chưa cao và không bền vững. Lượng bón trong vòng một năm cho 1 ha là cao so với cơ cấu khác như đất 2 vụ lúa và trồng vụ đông như cải ngồng, cải làn, khoai tây, dưa chuột.

Như đã nêu ở trên sử dụng phân bón cũng làm tích lũy kim loại nặng trong đất do kim loại nặng có khá nhiều trong sản phẩm dùng làm phân bón. Mặt khác khi đất đã bão hòa các chất chúng sẽ xâm nhập vào nguồn nước, khí quyển và gây ô nhiễm môi trường. Hậu quả là hiện nay tình trạng chua hóa ở tầng canh tác rất phổ biến, ngay cả những nơi đất phì nhiêu và có tập quán thâm canh do sử dụng lâu dài phân khoáng.

Như vậy, liều lượng và tỷ lệ bón cho các loại cây trồng trên địa bàn huyện ở mức trung bình, ngay cả đối với những cây rau màu cần đầu tư cao. Mặc dù hiện tại mức bón phân chưa quá nhiều để đến mức gây ô nhiễm cho môi trường ngay, song trong tương lai cũng cần phải cảnh báo rằng, với tổng lượng phân bón cho các cơ cấu cây trồng như hiện nay, sẽ có nguy cơ của sự tồn dư lại trong đất mà cây trồng chưa kịp sử dụng hết. Theo số liệu tính toán của các chuyên gia trong lĩnh vực nông hóa học ở Việt Nam, hiện nay hiệu suất sử dụng phân đạm mới chỉ đạt từ 30 - 45%, lân từ 40 - 45% và kali từ 40 - 50%, tuỳ theo chân đất, giống cây trồng, thời vụ, phương pháp bón, loại phân bón… Như vậy, còn 60 - 65% lượng đạm, 55 - 60% lượng lân và 55 - 60% lượng kali được bón vào đất nhưng chưa được cây trồng sử dụng. Trong số phân bón chưa được cây sử dụng, một phần còn lại ở trong đất, một phần bị rửa trôi theo nước mặt do mưa, theo các công trình thuỷ lợi ra các ao, hồ, sông suối gây ô nhiễm nguồn nước mặt. Một phần bị rửa trôi theo chiều dọc xuống tầng nước ngầm và một phần bị bay hơi do tác động của nhiệt độ hay quá trình phản nitrat hoá gây ô nhiễm không khí.


Tóm lại: Qua điều tra và phỏng vấn trực tiếp các nông dân cho thấy rằng ở Văn Lãng nông dân đã có nhiều kinh nghiệm trong thâm canh cây trồng và những năm gần đây đã áp dụng nhiều quy trình công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, song vẫn còn một số vấn đề còn tồn tại.

Trong phương thức sử dụng phân bón có thể rút ra mấy điểm sau:

- Tính kế hoạch còn thiếu: Hầu hết các hộ nông dân đều chưa có kế hoạch đầu tư các loại phân bón cho từng loại cây trồng trên đám ruộng của mình, mà sử dụng tùy tiện cả về liều lượng, tỷ lệ, kỹ thuật bón phân, thời điểm bón;

- Tính đồng đều trong sản xuất chưa cao: Do nhiều hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, các hộ nông dân đầu tư phân bón cả về chủng loại, liều lượng, tỷ lệ rất khác nhau.

Tất cả những tồn tại trên dẫn đến hiệu quả sử dụng phân bón không cao, cây trồng hấp thụ không hết, phân bón bị rửa trôi, bốc hơi… sẽ gây ra lãng phí về kinh tế, ô nhiễm môi trường.

4.2.2. Hoạt động sử dụng thuốc bảo vệ thực vật

Trong những năm vừa qua, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, người nông dân muốn sản xuất ra nhiều nông sản trên 1 ha đất canh tác. Vì vậy, sự thiếu hiểu biết người nông dân đã bất chấp sự cảnh báo về nguy hại của việc sử dụng quá mức các loại thuốc BVTV, gây tác hại trực tiếp đối với người tiêu dùng và chính họ. Mặt khác sử dụng quá mức thuốc BVTV còn để lại lượng tồn dư quá lớn trong đất canh tác, gây ô nhiễm môi trường đất.

Kết quả điều tra tình hình sử dụng thuốc BVTV tại các xã trong huyện cho thấy: 100% các hộ gia đình được điều tra đã sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc BVTV (phun ít nhất 2 lần/vụ, vụ Mùa thường phun nhiều hơn vụ Xuân), thuốc trừ cỏ lúa (những năm gần đây người dân đã không làm cỏ bằng tay mà phun thuốc), thuốc trừ ốc bươu vàng đối với các chân ruộng trũng. Thuốc BVTV được các hộ phun căn cứ vào hiện trạng sâu bệnh chứ không căn cứ vào thành


phần hóa học của thuốc hoặc mức độ, tần suất được phép sử dụng thuốc: Cứ khi nào có sâu thì phun, không kể khoảng cách thời gian phun; phun không theo liều lượng hướng dẫn, nhiều sâu thì pha đặc, ít sâu thì pha loãng. Hầu hết các hộ được hỏi đều không biết nguồn gốc thuốc, không biết tên thuốc mà chỉ nhớ giá của gói thuốc.

Theo kết quả tổng hợp từ phiếu điều tra, hơn 50% các hộ gia đình được điều tra đã sử dụng thuốc đều không biết nguồn gốc thuốc, sử dụng không theo chỉ dẫn; 15% hộ nông dân đã sử dụng một số loại thuốc cấm như Lindane, Monitor 60SC, Pentachlorin... 70% số hộ đã mua thuốc ở các hiệu thuốc tư nhân không có hướng dẫn sử dụng. Việc sử dụng thuốc BVTV tràn lan đã và sẽ làm một lượng chất độc hại trong đó có một lượng lớn kim loại nặng tồn dư trong môi trường đất của huyện. Số hộ nông dân tăng nồng độ thuốc lên 2 - 3 lần quy định m i khi thấy sâu không chết cao là rất phổ biến (50,9%). Điều này bắt nguồn từ việc nông dân phun không đúng thời điểm, sâu đã lớn khó chết với liều quy định. Hơn nữa, khi thấy một loại thuốc mới đặc hiệu với một đối tượng khó trừ như sâu tơ, nông dân thường dùng liên tục loại thuốc này, làm sâu nhanh chóng chuyển hóa tính chống thuốc.

Bảng 4.5. Mức độ sử dụng thuốc BVTV cho lúa trên đất Chuyên lúa


STT

Cây trồng

Thuốc bảo vệ thực vật

Số lần phun/vụ

Lượng sử dụng (kg/ha)

1

Lúa xuân

2,2

2,1

2

Lúa mùa

3,1

3,0


- Thuốc BVTV có tới 100% người được hỏi có sử dụng cho lúa trong cả 2 vụ, chủ yếu là thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh được sử dụng nhiều hơn trong vụ mùa. Trung bình trong 1 vụ người dân sử dụng từ 2,2 - 3,1 lần, lượng thuốc từ 2,1 - 3,0 kg, tổng lượng hàng năm người dân sử dụng khoảng 5,1 kg/ha. Ngoài ra, có tới 77,5% số hộ sử dụng thuốc trừ cỏ cho cả vụ lúa xuân và lúa mùa.


- Như vậy thuốc BVTV, thuốc trừ cỏ đã có hiện tượng lạm dụng trong thâm canh lúa hiện nay của người dân, mức độ càng ngày càng tăng (Nghiên cứu Viện Thổ Nhưỡng, 2009) điều này có thể dẫn đến sự mất cân bằng sinh thái, thoái hóa sinh tính, lý tính, hóa tính của đất, làm ô nhiễm tới môi nước và ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe con người và cộng đồng.

Bảng 4.6. Mức độ sử dụng thuốc BVTV cho các loại cây trồng trên đất 2 Lúa - Màu

STT

Cây trồng

Thuốc bảo vệ thực vật

Số lần phun/vụ

Lượng sử dụng (kg/ha)

1

Lúa xuân

2,2

2,1

2

Lúa mùa

3,1

3,0

3

Ngô đông

2,2

1,8

4

Khoai lang

0

0

5

Khoai tây

2,1

1,8

6

Bắp cải

5,1

6,0

7

Dưa chuột

5,7

3,5

8

Đậu tương

2

1,7

- Thuốc BVTV được người dân sử dụng cho loại hình 2 Lúa - màu thì giống với cơ cấu chuyên lúa và thêm các loại cây trồng vụ đông, duy nhất khoai lang còn ít được sử dụng, số lần sử dụng và lượng phun cao nhất trên Bắp cải (3,1 lần phun, tương ứng 3,0 kg hóa chất/ha/vụ).

- Như vậy người dân sử dụng hầu hết thuốc BVTV cho các loại cây trồng trên các loại hình sử dụng này (trừ Khoai lang). Trung bình hàng năm người dân phun từ 7 - 8,0 lần, lượng thuốc từ 5,1 - 11,1 kg hóa chất/ha. Xu hướng phải sử dụng thuốc BVTV ngày một cao đặc biệt cho rau, dưa chuột, ngô do nhiều loại sâu đã kháng thuốc, bên cạnh đó người dân còn thiếu kiến thức về phòng trừ sâu bệnh, thường làm theo cảm tính.


Bảng 4.7. Mức độ sử dụng thuốc BVTV cho các loại cây trồng trên đất lúa - màu

STT

Cây trồng

Thuốc bảo vệ thực vật

Số lần phun/vụ

Lượng sử dụng (kg/ha)

1

Lạc

3,1

2,7

2

Ngô

2,2

2,0

3

Rau xanh

2

1,7

4

Cà chua

3,5

3,5

5

Cải bắp

6,1

7,5

- Thuốc BVTV hầu như không thể thiếu được với người dân trồng màu ở thời điểm này, có tới 95% số hộ được phỏng vấn có sử dụng thuốc BVTV cho rau, trừ rất ít rau trồng dùng để ăn người dân không sử dụng. Tuy vậy, giữa các loại cây trồng có sự khác biệt lớn về số lần cũng như lượng sử dụng. Nhóm cây được người dân sử dụng nhiều nhất là Bắp cải, Cà chua (trung bình số lần phun trong 1 năm từ 6 đến 12 lần, lượng phun cho nhóm này từ 3,5 đến 7 kg/ha/vụ). Trong đó thấp nhất là cơ cấu trồng 2 vụ/năm ngô hoặc 2 lạc và 5% người dân sản xuất để tiêu dùng trong gia đình thì tổng lượng thuốc BVTV sử dụng/1 năm xấp xỉ bằng với loại hình chuyên Lúa, còn hầu hết đối với đất chuyên màu tần xuất sử dụng thuốc BVTV và liều lượng đều lớn hơn các loại hình khác.

4.3. Ảnh hưởng hoạt động sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đến chất lượng môi trường đất

Nhóm đất trồng cây hàng năm có diện tích khoảng 6.252,9 ha; chiếm 11,99% tổng diện tích đất nông nghiệp (DTĐNN), tương ứng 83,07% diện tích đất sản xuất nông nghiệp (Phòng Tài nguyên và Môi trường Văn Lãng, 2018); phân bố ở hầu hết các xã trong huyện, gồm các loại đất: đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa, đất phù sa ngòi suối, đất phù sa và đất dốc tụ.


Đất trồng cây hàng năm, chiếm diện tích chủ yếu trong tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp, vì vậy trong điều kiện hiện có, đề tài đã tiến hành lấy mẫu phân tích đánh giá để kiểm tra tính chất hóa học, sự có mặt của kim loại nặng trong đất trên một số nhóm đất trồng cây hàng năm, trên 3 loại hình sử dụng đất chính có sự đối chứng với đất lâm nghiệp (mẫu số 04, 11, 23…) tương ứng từng khu vực lấy mẫu (Tác giả tham gia trong quá trình lấy mẫu đất phân tích và kế thừa kết quả phân tích của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lạng Sơn).

4.3.1. Chất lượng môi trường đất trên mô hình chuyên Lúa

4.3.1.1. Tính chất hóa học của đất

Đất chuyên lúa được phân bố đều khắp trên địa bàn huyện, song chủ yếu tập trung trên loại đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa và đất phù sa không được bồi, glây, ít chua đến chua. Để đảm bảo tính đại diện cho mẫu quan sát chúng tôi tiến hành điều lấy mẫu nông hóa tập trung tại các xã: Tân Mỹ, Tân Lang và Na Sầm là các xã thuộc 03 khu vực sản xuất nông nghiệp đại diện cho 03 khu vực của huyện (Bảng 4.8).

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/09/2023