Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển du lịch từ năm 2006 đến năm 2015 - 7


Đảng khóa X, ngày 05/02/2007, Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới: “Phát triển nhanh các dịch vụ có giá trị gia tăng cao và các dịch vụ cơ bản phục vụ phát triển của các lĩnh vực liên quan trong nền kinh tế như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, vận tải, du lịch,...” [58, tr.7].

Chủ trương mở rộng, nâng cao chất lượng, phát triển mạnh du lịch là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng đối với phát triển du lịch. Mở rộng và nâng cao chất lượng, phát triển mạnh du lịch là xem phát sự phát triển du lịch có vai trò đặc biệt quan trọng, cần được ưu tiên tập trung phát triển cả về cơ chế, chính sách, vốn, công nghệ, nguồn nhân lực. Phát triển mạnh du lịch là tạo bước phát triển toàn diện du lịch cả về phạm vi, quy mô, chất lượng dịch vụ, có tỷ trọng, tốc độ, chất lượng tăng trưởng cao, có tính chuyên nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch đồng bộ, hiện đại. Đồng thời, cùng với việc phát triển mạnh du lịch phải nâng cao chất lượng hiệu quả du lịch, coi nâng cao chất lượng, hiệu quả du lịch là yếu tố then chốt trong phát triển du lịch.

Thứ hai, nâng cao chất lượng và hiệu quả du lịch trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá, lịch sử.

Việt Nam có điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch

sử thuận lợi để

phát triển du lịch. Đảng luôn coi trọng bảo vệ tự

nhiên,

môi trường sinh thái trong mọi hoạt động kinh tế

­ xã hội. Chỉ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

thị 46

CT/TW ngày 14/10/1994 của Ban Bí thư nêu rõ phát triển du lịch: “...phải đồng thời đạt hiệu quả trên nhiều mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc và nhân phẩm con người Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa thế giới” [2, tr.1].

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển du lịch từ năm 2006 đến năm 2015 - 7


Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 2001 ­ 2010 của Đảng xác định phát triển du lịch trên cơ sở: “Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá, lịch sử” [56, tr.178]. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Kết hợp hài hoà việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hoá với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch” [57, tr.107].

Du lịch và điều kiện tự nhiên, sinh thái có mối quan hệ tác động chặt chẽ. Du lịch muốn phát triển nhất định phải dựa trên điều kiện tự nhiên, sinh thái, đây là những “nguyên liệu” không thể thiếu để tạo thành SPDL hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Điều kiện tự nhiên, sinh thái là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn và các giá trị thụ hưởng của hoạt động du lịch, cảnh quan và môi trường du lịch là yếu tố sống còn của du lịch, vì vậy mọi chương trình, hoạt động phát triển du lịch một mặt khai thác tối đa lợi thế về điều kiện tự

nhiên, sinh thái, mặt khác phải coi trọng hoạt động bảo vệ nhiên và xã hội.

môi trường tự

Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 2001 ­ 2010 của Đảng yêu

cầu: “Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân” [56, tr.208]. Du lịch và văn hóa có mối quan hệ tác động qua lại sâu sắc, văn hóa là động lực, nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng của du lịch, đến lượt mình, du lịch tác động trở lại văn hóa, sự tác động đó theo hai hướng: Một là, giữ gìn và phát huy, tôn vinh các giá trị văn hóa; hai là, góp phần làm cho các giá trị văn hóa xuống cấp, vì vậy, phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển du lịch và văn hóa. Việt Nam là một trong số ít các quốc gia có nền văn hóa lâu đời, mang đậm bản sắc dân tộc, văn hóa từ lâu là nhân tố cấu thành Tổ quốc, quốc gia, đồng thời chúng ta đang hội nhập mạnh mẽ tạo điều kiện cho du lịch phát triển nhanh chóng, nhiều cái đẹp, cái hay được du nhập, song những cái xấu cũng vào theo làm ô nhiễm văn hóa, do đó, phát triển du lịch phải


giữ vững, phát huy các thuần phong, mỹ tục, đồng thời giảm thiểu và hạn chế tối đa các tệ nạn xã hội, phát triển du lịch phải góp phần bảo vệ, phát triển văn hóa.

Thứ ba, phát triển du lịch đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế.

Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 2001 ­ 2010 thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng đã nêu rõ phát triển du lịch nhằm: “....đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế” [56, tr.178].

Phát triển du lịch đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước là một trong

những định hướng quan trọng của Đảng, bởi phát triển du lịch nội địa có ý nghĩa về nhiều mặt. Phát triển du lịch nội địa không chỉ đạt hiệu quả kinh

tế mà còn góp phần cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân,

giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển du lịch quốc tế là điều kiện cần thiết và cơ bản để thúc đẩy du lịch phát triển. Phát triển du lịch quốc tế nhằm khuyến khích, thúc đẩy tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu tại chỗ, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, giao lưu, hội nhập quốc tế, bởi vì, theo quan niệm thông thường xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hóa dịch vụ tiêu thụ bên ngoài biên giới quốc gia, nhưng với du lịch thì không hẳn, du lịch là loại hình xuất khẩu

độc nhất vô nhị

­ sản phẩm và dịch vụ

được cung cấp cho người nước

ngoài được tiêu thụ ngay ở nước sở tại.

Đảng xác định phải phát triển du lịch đáp ứng nhu cầu trong nước và

phát triển nhanh du lịch quốc tế bởi mối quan hệ tác động sâu sắc giữa

chúng, là tiền đề, động lực, điều kiện thúc đẩy nhau cùng phát triển, cùng quyết định sự phát của du lịch. Phát triển du lịch không chỉ đáp ứng nhu cầu khách quốc tế mà cả khách nội địa; quy hoạch, phát triển các điểm du lịch, khu du lịch phải bảo đảm không gian cùng cho khách quốc tế và nội địa;


SPDL phải phù hợp với từng đối tượng đáp ứng nhu cầu của từng loại

khách và XT, QBDL phải được tiến hành đồng bộ nước.

cả quốc tế

và trong

2.1.2.3. Nhiệm vụ và giải pháp

Trên cơ

sở chủ

trương, định hướng phát triển kinh tế

­ xã hội nói

chung và định hướng phát triển du lịch nói riêng do Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 ­ 2010 và Đại hội X của Đảng vạch ra, có thể khái quát một số nội dung liên quan trực tiếp đến du lịch như sau:


lịch.

Thứ

nhất,

chú trọng xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển du

Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ những nội dung đối với công tác quy

hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, một trong những chính sách cơ bản để hoàn thành mục tiêu kinh tế ­ xã hội do Đại hội X xác định là đổi

mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác chiến lược, quy hoạch, kế

hoạch. Trong đó, vấn đề quan trọng hàng đầu phải thực hiện ngay là ban hành và thực thi Luật Kế hoạch hóa phát triển kinh tế, VH ­ XH, đồng thời

đổi mới mạnh mẽ

công tác quy hoạch, kế

hoạch, Đại hội nhấn mạnh:

“Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu chiến lược, công tác quy hoạch, kế hoạch, đặc biệt coi trọng các chỉ tiêu và biện pháp về chất lượng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường” [57, tr.250­251]. Phương hướng đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch là:

Đổi mới nội dung, phương pháp, quy trình xây dựng, thông qua và phê duyệt, triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh

tế ­ xã hội phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế

thị

trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy tối đa lợi thế so sánh và nguồn lực của quốc gia, của mỗi vùng và mỗi địa

phương. Gắn kết chặt chẽ hoạch” [57, tr. 251].

giữa chiến lược, quy hoạch với kế


Và “Công tác quy hoạch, kế hoạch phải đồng bộ từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch cụ thể” [57, tr.252]. Năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, chủ trương về công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đối với các ngành kinh tế được xác rõ tại Nghị quyết số 08­NQ/TW, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Nghị quyết yêu cầu: “Rà soát, điều chỉnh chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ có lợi thế so sánh” [58, tr.3].

Với tư cách là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng cao, công tác kế hoạch, quy hoạch phát triển du lịch càng phải làm kỹ hơn, có sự tính toán, nghiên cứu sâu sắc, đảm bảo đúng định hướng của Đảng.

Quán triệt quan điểm Đại hội X của Đảng về công tác xây dựng quy

hoạch, kế hoạch, công tác kế hoạch quy hoạch phát triển du lịch phải đúng

pháp luật, đặc biệt là

Luật Kế

hoạch hóa phát triển kinh tế, VH ­ XH,

đồng thời công tác quy hoạch, kế hoạch du lịch phải đổi mới toàn diện cả về nội dung, phương pháp, xác định rõ các chỉ tiêu phát triển. Khi thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch phải trên cơ sở tiềm năng,

thế

mạnh về

tài nguyên du lịch của đất nước, của từng vừng, từng địa

phương, gắn kết chặt chẽ với các kế hoạch cụ thể.

giữa chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch

Thứ hai, khuyến khích đầu tư phát triển du lịch, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước.

Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 2001 ­ 2010 tại Đại hội IX của Đảng đã xác định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và để thực hiện mục tiêu này, Đại hội IX nêu định hướng đầu tư phát triển du lịch: “Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước” [56, tr.178].

Đại hội X của Đảng (2006) của Đảng đã xác định rõ về chính sách đầu tư đối với tất cả các ngành kinh tế, xã hội. Chủ trương chung là đổi


mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Đối với đầu tư của Nhà nước, Đại hội X nêu: “Hoàn thiện thể chế để bảo đảm đầu tư của Nhà nước có hiệu quả, khắc phục tình

trạng đầu tư

dàn trải, thất thoát, lãng phí. Vốn đầu tư

từ ngân sách nhà

nước tập trung cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển văn hoá,

giáo dục, khoa học ­ công nghệ, y tế

và trợ

giúp vùng khó khăn” [57,

tr.239]. Đồng thời: “Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước

ngoài đầu tư [57, tr.240].

phát triển các lĩnh vực dịch vụ

theo các cam kết quốc tế”

Trong giai đoạn 2006 ­ 2010, một trong những nội dung quan trọng Đại hội X của Đảng xác định là tập trung và ưu tiên đầu tư phát triển du lịch, Đại hội X nêu rõ: “Khuyến khích đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động du lịch” [57, tr.202]. Việc đầu tư phát triển du lịch được Đảng chú trọng và ưu tiên, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia. Theo đó, trong giai đoạn 2006 ­ 2010, đầu tư phát triển du lịch

tập trung trọng tâm vào phát triển và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng,

đặc biệt là mạng lưới giao thông tại các khu du lịch, điểm du lịch, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng tại các địa bàn trọng điểm du lịch, các khu du lịch quốc gia, các điểm du lịch có tiềm năng phát triển du lịch ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Thứ ba, đa dạng hóa các loại hình, sản phẩm du lịch.

Đại hội X của Đảng khẳng: “...nâng cao chất lượng hoạt động du lịch, đa dạng hoá sản phẩm và các loại hình du lịch” [57, tr.202]. Chủ

trương đa dạng hoá sản phẩm và các loại hình du lịch thể hiện rõ trong

định hướng và chính sách phát triển các vùng. Đối với các vùng biển, đảo,

Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 2001 ­ 2010 của Đảng chủ trương

phát triển mạnh du lịch biển, đảo: “Đẩy mạnh nuôi, trồng, khai thác, chế


biến hải sản; thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí;...mở mang du lịch”

[56, tr.181­182]. Đại hội X của Đảng tiếp tục nêu rõ: “Hoàn chỉnh quy

hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch

biển, đảo” [57, tr.225]. Đối với Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền

Trung, Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 2001 ­ 2010 khẳng định: “Phát triển mạnh du lịch biển và ven biển, gắn liền với các khu di tích, danh lam thắng cảnh của cả vùng, đặc biệt là trên tuyến Huế ­ Đà Nẵng ­ Hội An ­ Nha Trang” [56, tr.184]. Đối với Vùng trung du miền núi Bắc Bộ và Vùng

Tây Nguyên, Đại hội X của Đảng yêu cầu tập trung mọi nỗ lực để phát

triển kinh tế, bảo đảm an ninh quốc phòng, đồng thời chú trọng: “Phát triển du lịch sinh thái và văn hóa dân tộc” [57, tr.226].

Như vậy, trong giai đoạn 2006 ­ 2010, Đảng xác định phát triển các loại hình, SPDL là đa dạng hóa các SPDLvới nhiều loại hình du lịch phong phú, trong đó tập trung vào các SPDL biển đảo, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái. Đồng thời xây dựng SPDL tại các trung tâm du lịch lớn trên phạm vi cả nước đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.

Thứ tư, tăng cường công tác xúc tiến, quảng bá du lịch ở trong nước và quốc tế.

Luật Du lịch năm 2005 xác định: “Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du

lịch” [31, tr.4]. Như vậy, nội hàm của xúc tiến du lịch chính là hoạt động

nghiên cứu, tìm kiếm thị trường du lịch và tổ chức tuyên truyền, giới thiệu về đất nước, các giá trị văn hóa, danh lam thắng cảnh,...nhằm thúc đẩy du lịch phát triển được tiến hành thông qua các hoạt động phát thanh, truyền hình, báo chí, phim,...

Công tác XT, QBDL có vai trò rất quan trọng đối với phát triển du lịch. Nhận thức rõ điều đó, từ năm 1994, Đảng đã có chủ trương phải đẩy


mạnh hoạt động XT, QBDL. Chỉ thị 46 ­ CT/TW của Ban Bí thư khẳng

định để phát triển du lịch phải: “...đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ

hợp tác quốc tế trong lĩnh vực du lịch nhằm đẩy mạnh tuyên truyền

quảng cáo du lịch ra nuớc ngoài, thông tin đối ngoại, mở rộng thị trường, thu hút khách và vốn đầu tư nước ngoài,...” [2, tr.1], Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 2001 ­ 2010 của Đảng chỉ rõ: “Tăng đầu tư ngân sách cho

văn hoá tương ứng với tăng trưởng kinh tế, tập trung xây dựng một số

trung tâm lớn gắn kết văn hoá, thể thao, du lịch”, đồng thời “Đầu tư thích đáng cho việc truyền bá ở trong nước các giá trị văn hoá của loài người và

giới thiệu đất nước, văn hoá, con người Việt Nam với thế giới” [56,

tr.210]. Đại hội X của Đảng chủ trương gắn kết chặt chẽ giữa phát triển du lịch với phát huy, bảo tồn các giá trị văn hóa, khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế.

Theo đó, trong giai đoạn 2006 ­ 2010, một mặt thực hiện tốt công tác QB, XTDL ở nước ngoài nhằm quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam ra thị trường quốc tế, bạn bè các nước và thu hút khách du lịch. Mặt khác, đẩy mạnh các hoạt động QB, XTDL trong nước nhằm mở rộng thị trường khách trong nước, góp phần vào sự phát triển của du lịch Việt Nam. Nội dung chủ yếu là quảng bá về đất nước, con người Việt Nam, các danh lam thắng cảnh nổi tiếng, các di tích lịch sử văn hóa, tập trung quảng bá trên các phương tiện thông tin truyền thông: Báo, tạp chí, truyền hình trong và ngoài nước, sách,...

Thứ năm, đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch.

Đại hội X của Đảng chưa xác định chủ trương cụ thể đối với phát triển nguồn nhân lực du lịch. Tuy nhiên, Đại hội đã xác định chủ trương về

phát triển nguồn nhân lực cho tất cả

các ngành kinh tế

đáp

ứng yêu cầu

công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” [57, tr.187]. Để thực hiện nhiệm vụ này Đảng xác định: Đổi mới tư duy giáo dục một cách

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 27/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí