Thực Trạng Đảng Lãnh Đạo Phát Triển Du Lịch Trước Năm 2006


hệ thống khu vui chơi, giải trí, mua sắm du lịch đang được đầu tư mạnh mẽ.

Những khó khăn, thách thức của du lịch Việt Nam

Từ năm 2006 đến năm 2010, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội và quốc phòng an ninh, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định trong từng lĩnh vực. Đại hội XI của Đảng (2011) nhận định: Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước [60, tr.165]. Bên cạnh đó, các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội, môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém [60,tr.167]. Những điều đó mang đến những khó khăn, thách thức đối với phát triển kinh tế, văn hóa xã hội nói chung và phát triển du lịch nói riêng, những biểu hiện cụ thể là: Nguồn vốn đầu tư cho

phát triển du lịch còn ít; nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch còn

thiếu và yếu; cơ sở hạ tầng du lịch về giao thông, điện, nước chưa thật sự đảm bảo; hệ thống SPDL, các khu vui chơi giải trí chưa thực sự hấp dẫn.

2.1.1.4. Thực trạng Đảng lãnh đạo phát triển du lịch trước năm 2006

Ưu điểm

Thứ

nhất,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

Đảng đã hình thành và từng bước bổ

sung hệ

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển du lịch từ năm 2006 đến năm 2015 - 6

thống các

quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển du lịch.

Những chủ trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà

nước thể hiện trong các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII,

VIII và lần thứ

IX, Chỉ

thị

46 CT/TW ngày 14/10/1994 của Ban Bí thư

Trung ương, Thông báo số 179 TB/TW ngày 11/11/1998 của Bộ Chính trị về Phát triển du lịch trong tình hình mới. Thông báo số 179/TB­TW nêu rõ:

“Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng” [3, tr.1]. Đại hội IX

của Đảng xác định: Phát triển du lịch trở nhọn.

thành một ngành kinh tế

mũi


Thứ

hai,

Đảng quan tâm chỉ

đạo phát triển du lịch, coi du lịch là

ngành kinh tế tổng hợp, quan trọng.

Đại hội VII của Đảng (1991) nhận định: Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ cần được phát triển. Chỉ thị 46 CT/TW ngày 14/10/1994 đã yêu cầu các cơ quan nhà nước ban hành, sửa đổi, bổ sung các chính sách, luật pháp về công tác du lịch phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới và nhanh chóng kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa phương. Ban Bí thư Trung ương Đảng yêu cầu ngành du lịch phối hợp với các ban, ngành, địa phương, đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội để: Hướng dẫn, tổ chức phát triển du lịch theo đúng pháp luật, quản lý và phục vụ tốt khách du lịch, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên du lịch, phối hợp chặt chẽ liên ngành để đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ hợp tác quốc tế. Đồng thời, yêu cầu các cơ quan thông tin đại chúng và Tổng

cục Du lịch tiến hành tuyên truyền phổ

biến quan điểm, chủ

trương của

Đảng, các chính sách của Nhà nước về công tác du lịch, vai trò, vị trí và hiệu quả nhiều mặt của phát triển du lịch, chống tiêu cực trong hoạt động du lịch.

Trên cơ sở

đó, Chính phủ

đã ban hành Quyết định số

307/TTg, ngày

24/5/1995, Phê duyệt Quy hoạch Tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995­2010, nêu rõ bối cảnh, mục tiêu, giải pháp phát triển du lịch từ năm 1995 đến năm 2010.

Đại hội VIII của Đảng (1996) chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành kinh tế, trong đó chú trọng phát triển du lịch với mục tiêu từng bước đưa Việt Nam trở thành trung tâm du lịch có tầm cỡ trong khu vực và chỉ rõ nhiệm vụ phát triển du lịch trong thời gian tới là: “Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng to lớn của đất nước theo hướng du lịch sinh thái, văn hóa, môi trường [54, tr.194]. Thông báo số 179 TB/TW nhấn mạnh: “Để tiếp tục thực hiện tốt các chức năng, hoạt động du lịch trong thời gian tới cần khai thác tốt hơn các tiềm năng, thế mạnh về du lịch của đất nước,


nâng cao ý thức phát triển du lịch phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc và văn minh quốc tế” [4, tr.1].

Đại hội IX của Đảng (2001) tiếp tục nêu rõ định hướng phát triển du lịch trong giai đoạn 2001 ­ 2010, trong đó nhấn mạnh phải nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch [56, tr.287]. Thực hiện sự chỉ

đạo đó, Thủ

tướng Chính phủ

ban hành Quyết định số

97/2002/QĐ­TTg,

ngày 22/7/2002, Phê duyệt Chiến lược Phát triển du lịch Việt Nam 2001­

2010, đồng thời, các tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung

ương, các bộ, ban,

ngành tiếp tục cụ phạm vi nhiệm vụ.

thể

hóa chủ

trương phát triển du lịch của Đảng theo

Thứ ba, du lịch Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề VH ­ XH.

Xây dựng, nâng cấp cơ sở lưu trú du lịch phát triển mạnh mẽ. Đến năm

2005, cả

nước có khoảng 6.000 cơ

sở lưu trú, với 130.000 buồng, trong đó

2.575 cơ sở được xếp hạng với tổng số 72.458 buồng, cụ thể: 18 khách sạn 5 sao với 5.251 buồng; 48 khách sạn 4 sao với 5.797 buồng; 119 khách sạn 3 sao với 8.724 buồng; 449 khách sạn 2 sao với 18.447 buồng; 434 khách sạn 1 sao với 10.757 buồng và 923 khách sạn đạt tiêu chuẩn tối thiểu với 23.482 buồng [136, tr.6].

Số lượng khách du lịch đến Việt Nam tăng nhanh và đều qua các

năm. Lượng khách năm 1994 đạt một triệu. Từ năm 1990 đến 2004 lượng khách du lịch luôn duy trì được mức tăng trưởng cao 2 con số (trung bình

năm trên 20%). Khách du lịch quốc tế

tăng 11 lần từ

250.000 lượt (năm

1990) lên xấp xỉ 3 triệu lượt (năm 2004). Khách du lịch nội địa tăng 14,5

lần, từ 1 triệu lượt (năm 1990) lên 14,5 triệu lượt (năm 2004). Số lượng

người Việt Nam đi du lịch nước ngoài ngày càng tăng, hàng năm trên 1 vạn người [136, tr.10].

Thu nhập từ du lịch tăng nhanh, năm 1990 tổng thu từ khách du lịch

mới đạt 1.350 tỷ

đồng thì năm 2004 là 26.000 tỷ

đồng, gấp 20 lần năm


1990. Đến năm 2005, đạt 30 ngàn tỷ đồng [37, tr.10]. Tạo việc làm cho trên 23 vạn lao động trực tiếp và trên 50 vạn lao động gián tiếp, chiếm 2,5% lao động toàn quốc [136, tr.16].

Nguyên nhân ưu điểm: Du lịch có sự tăng trưởng ổn đinh như vậy do nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân quyết định là đường lối đổi mới toàn diện đất nước, những thành tựu trong phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế, kinh tế đối ngoại tạo điều kiện cho du lịch phát triển. Bên cạnh đó, nhu cầu đi du lịch của con người tăng mạnh theo thời gian, Việt Nam có tiềm năng, thế mạnh lớn về du lịch, mặt khác, Việt Nam có môi trường an ninh tốt, các điều kiện về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch được cải thiện ngày một tốt hơn.

Hạn chế

Thứ nhất, chủ trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng chưa được quan tâm tương xứng với vai trò của nó.

Từ năm 1975 đến năm 1991, du lịch chưa được Đảng quan tâm nhiều, vì vậy, trong giai đoạn này du lịch chưa có sự chuyển biến, phát triển chậm. Giai đoạn từ 1991 đến năm 2005, Đảng coi phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế ­ xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đại hội VII của Đảng xác định phát triển du lịch là cần thiết và quan trọng nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tuy nhiên, từ năm 1991 đến năm 1994 chưa triển khai thực hiện, đến năm 1995, mới xây dựng và triển khai quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam lần đầu tiên. Năm 2001 Đảng xác định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, song chưa có kế hoạch triển khai thực hiện.

Thứ hai, hiệu quả chỉ đạo một số nội dung phát triển du lịch còn hạn

chế.


Việc tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch Tổng thể du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 ­ 2010 và Chương trình Hành động quốc gia về Du lịch giai đoạn 2002­2005 còn thiếu tính chủ động và sáng tạo; đầu tư cho XT, QBDL chưa được chú trọng; tổ chức bộ máy quản lý còn có những bất cập, lực lượng trực tiếp triển khai phát triển du lịch còn mỏng, hoạt

động kiêm nhiệm nên việc tổ

chức thực hiện còn bị

động, thiếu tính

chuyên nghiệp và hiệu quả

chưa cao; chưa có chính sách

ưu tiên huy

động nguồn lực, nhất là nội lực, để phát triển du lịch; công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, chất lượng, quy mô, đội

ngũ nhân lực du lịch chưa đáp

ứng đầy đủ

nhu cầu phát triển du lịch

trong tình hình mới. Báo cáo tổng kết chương trình Hành động quốc gia

về du lịch 2000 ­ 2005 đánh giá: Việc tổ chức triển khai thực hiện

Chương trình còn thiếu tính chủ động và thiếu sáng tạo trong xã hội hóa các nguồn lực (nhân, tài, vật lực) cho phát triển du lịch. Đầu tư cho xúc tiến quảng bá du lịch chưa được nhận thức đúng trong các cấp các ngành. Các hoạt động xúc tiến du lịch ở nước ngoài chưa được tiến hành

một cách sâu rộng, thường xuyên và hiệu quả [137, tr.18]. SPDL còn

thiếu hấp dẫn, trùng lắp nhiều, chưa có những SPDL chủ lực, độc đáo

nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch, chưa phát huy

được với tiềm năng, thế mạnh của tài nguyên du lịch.

Nguyên nhân hạn chế: Việt Nam là một nước nghèo, đang trong

quá trình khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh, kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn và tụt hậu rất xa so với thế giới. Du lịch Việt Nam mới

mở cửa, trong khi du lịch thế

giới đã phát triển cao về

nhiều mặt, du

khách thường đến những nơi có nền du lịch phát triển cao, bởi ở đó,

nhiều nhu cầu của họ

được đáp

ứng. Công tác tổ

chức và quản lý du

lịch thiếu sự ổn định, kinh nghiệm trong tổ chức, quản lý còn thiếu. Cơ

sở vật chất phục vụ

khách du lịch chưa đầy đủ, các cơ

sở lưu trú đạt


tiêu chuẩn quốc tế còn ít nên chưa hấp dẫn khách du lịch lại thiếu sự đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch.

2.1.2. Chủ trương của Đảng về phát triển du lịch (2006 ­ 2010)


Chủ

trương phát triển du lịch giai đoạn 2006 ­ 2010 thể

hiện rõ ở

Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 2001 ­ 2010 do Đại hội IX (2001)

thông qua; Văn kiện Đại hội X (2006) và các hội nghị

Trung

ương của

Đảng trong giai đoạn 2006 ­ 2010. Nội dung chủ trương phát triển du lịch

trong giai đoạn 2006 ­ 2010 của Đảng thể sau:

hiện

ở những vấn đề cơ

bản

2.1.2.1. Mục tiêu: Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, sớm đạt tới trình độ là quốc gia phát triển về du lịch của khu vực.

Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 2001 ­ 2010 thông qua tại Đại IX (2001) của Đảng xác định mục tiêu phát triển du lịch: “Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn” và “...sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực” [56, tr.178]. Đây là mục tiêu xuyên suốt, lâu dài để phát triển du lịch cũng như khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của du lịch. Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, sớm đạt tới trình độ là quốc gia phát triển về du lịch của khu vực là yêu cầu khách quan, xuất phát từ thế mạnh của Việt Nam về du lịch, đồng thời phù hợp với xu thế phát triển kinh tế thế giới; sẽ tạo nguồn thu nhập lớn, đóng góp vào GDP, tạo ra đòn bẩy thúc đẩy các ngành khác, có khả năng tích lũy cao; tạo ra số lượng việc làm lớn, góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế ­ xã hội của quốc gia; có tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế ­ xã hội ở các vùng khó khăn, góp phần xóa đói giảm nghèo; có tác dụng tốt tới việc phục hồi và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi cho các ngành khác của nền kinh tế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.

Cụ thể hóa mục tiêu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 2001 ­ 2010 thông


qua tại Đại IX (2001) của Đảng, 2001 ­ 2010 đã xác định rõ:

Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam

Phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở

khai thác có hiệu quả

lợi thế về

điều kiện tự

nhiên, sinh thái,

truyền thống văn hoá lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực [118, tr.1].

Các chỉ

tiêu cụ

thể

là: Tốc độ

tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ

2001 ­ 2010 đạt 11 ­ 11,5%/ năm. Năm 2010, Khách quốc tế vào Việt Nam từ 5,5 đến 6 triệu lượt người, khách nội địa từ 25 đến 26 triệu lượt người, thu nhập du lịch đạt 4 đến 4,5 tỷ USD [118, tr.1]. Chương trình Hành động

quốc gia về

du lịch 2006 ­ 2010

tiếp tục chỉ

rõ, phấn đấu từ

năm 2010

Việt Nam trở thành một trong các quốc gia có ngành du lịch phát triển

trong khu vực, cụ thể: Tỷ lệ tăng trưởng khách du lịch quốc tế tăng từ 10

­ 20%/năm; tỷ lệ tăng trưởng khách du lịch nội địa tăng từ 15 ­ 20%/năm. Thu nhập du lịch năm 2010 đạt khoảng 4 ­ 5 tỷ USD [121, tr.1].

Tiếp đó, Chương trình Hành động của ngành du lịch sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới giai đoạn 2007 ­ 2012 đã điều chỉnh theo hướng tăng lên các chỉ tiêu về đón khách du lịch, về thu nhập từ du lịch và xác định rõ ràng, đầy đủ hơn về một số chỉ tiêu khác, cụ thể: Về đón khách:

Phấn đấu đến năm 2010, du lịch Việt Nam sẽ đón được 5,5­6,0 triệu lượt

khách quốc tế với nhịp độ tăng trưởng trung bình đạt 11,4% và 25 triệu lượt khách du lịch nội địa; về thu nhập du lịch: Phấn đấu năm 2010, doanh thu từ du lịch đạt 4,0 ­ 4,5 tỷ USD, đưa GDP năm 2010 đạt 5,3% tổng GDP của cả nước với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 11,0 ­ 11,5%/năm; về tạo việc làm


cho xã hội: Đến năm 2010, tạo 1,4 triệu việc làm, trong đó có 350.000 việc làm trực tiếp [9, tr.1].

2.1.2.2. Phương hướng

Thứ nhất, mở rộng, nâng cao chất lượng và phát triển mạnh du lịch

Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 2001 ­ 2010 của Đảng chủ

trương mở

rộng và nâng cao hiệu quả

kinh tế

đối ngoại, trong đó, phát

triển mạnh du lịch được xem là một nội dung phải chú trọng: “Đẩy mạnh các lĩnh vực dịch vụ thu ngoại tệ: du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải,...” [56, tr.199].

Đại hội X (2006) của Đảng nêu rõ phương hướng phát triển du lịch giai đoạn 2006 ­ 2010, Đại hội khẳng định: “Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng một số ngành: Vận tải, thương mại, du lịch,...” [57, tr.92]. Đại hội X của Đảng (2006) cũng chỉ rõ:

Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri

thức, đưa nước ta cơ

bản trở

thành một nước công nghiệp theo

hướng hiện đại vào năm 2020 [57, tr.185­186].

Để thực hiện mục tiêu này, Đại hội X của Đảng đã xác định phương hướng phát triển của các ngành, vùng kinh tế, định hướng giáo dục đào tạo, văn hóa,... Đối với du lịch, Đại hội nêu rõ: “Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, như vận tải, thương mại, du lịch...” [57, tr.201].

Năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, du lịch đứng trước thời cơ và thách thức lớn, chủ trương phát triển nhanh du lịch được nêu tại Nghị quyết số 08­NQ/TW, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 27/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí