Vai Trò Của Du Lịch Đối Với Sự Phát Triển Kinh Tế


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT


1.1 Du lịch

1.1.1 Khái niệm du lịch

Từ giữa thế kỷ 19, du lịch bắt đầu phát triển mạnh và ngày nay đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến. Nhiều nước đã lấy chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, khái niệm “Du lịch” được hiểu rất khác nhau tại các quốc gia khác nhau. Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, không chỉ ở nước ta, nhận thức về nội dung du lịch vẫn chưa thống nhất. Do hoàn cảnh khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Do vậy có bao nhiêu tác giả nghiên cứu về du lịch thì có bấy nhiêu định nghĩa.

Khái niệm chung về Du lịch: “Du lịch là tổng hợp các hiện tượng và các mối quan hệ phát sinh từ tác động qua lại giữa khu du lịch, các nhà kinh doanh, chính quyền và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và tiếp đón khách du lịch[17, tr.1]

Khái niệm về du lịch theo cách tiếp cận của các đối tượng liên quan đến hoạt động du lịch:

Đối với người đi du lịch: Du lịch là cuộc hành trình và lưu trú của họ ở ngoài nơi cư trú để thoả mãn các nhu cầu khác nhau về hoà bình, hữu nghị, tìm kiếm kinh nghiệm sống hoặc thoả mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần khác.

Đối với người kinh doanh du lịch: Du lịch là quá trình tổ chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của người du lịch và đạt được mục đích số một của mình là thu lợi nhuận.

Đối với chính quyền địa phương: Du lịch là việc tổ chức các điều kiện về hành chính, về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật để phục vụ khách du lịch, là tổng hợp các hoạt động kinh doanh nhằm tạo điều kiện cho khách du lịch trong việc


hành trình và lưu trú, là cơ hội để bán các sản phẩm của địa phương, tăng thu ngoại tệ, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân địa phương.

Đối với cộng đồng dân cư sở tại: Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội mà hoạt động du lịch tại địa phương mình, vừa đem lại những cơ hội để tìm hiểu nền văn hoá, phong cách của những người ngoài địa phương mình, vừa là cơ hội để tìm việc làm, phát huy các nghề cổ truyền, tăng thu nhập nhưng đồng thời cũng gây ảnh hưởng đến đời sống người dân sở tại như về môi trường, trật tự an ninh xã hội, nơi ăn, chốn ở,... [17, tr.1]

Dưới con mắt của Guer Freuler thì “Du lịch với ý nghĩa hiện đại của từ này là một hiện tượng của thời đại chúng ta, dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu khôi phục sức khoẻ và sự thay đổi của môi trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp thiên nhiên”.

Năm 1987, Pirogiomic đưa ra khái niệm “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan đến việc di chuyển và lưu trú tại bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ nhận thức giá trị về tự nhiên, kinh tế văn hóa”.

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO): Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.

Theo Luật du lịch Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2006: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”

Khác với quan điểm trên, các học giả biên soạn bách khoa toàn thư Việt Nam đã tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt. Theo các chuyên


gia này, nghĩa thứ nhất của từ này là “Một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh. Theo định nghĩa thứ hai, du lịch được coi là “Một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thông lịch sử và văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước, đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình, về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.

Để tránh sự hiểu lầm và không đầy đủ về du lịch, chúng ta tách du lịch thành hai phần để định nghĩa nó. Du lịch có thể được hiểu là:

Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ của các cơ sở chuyên cung ứng.

Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.

Từ những quan điểm trên, có thể thấy rằng định nghĩa về du lịch rất đa dạng và phong phú nhưng nhìn chung các khái niệm đều cho rằng du lịch là một hoạt động di chuyển ra khỏi nơi cư trú thường xuyên trong một khoảng thời gian nhất định với nhiều mục đích khác nhau như nghỉ ngơi, tham quan, giải trí, tìm hiểu văn hóa địa phương hay kinh doanh… Kèm theo đó sẽ phát sinh những nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ liên quan khác. Do vậy cũng có thể hiểu du lịch như là một ngành kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu phát sinh của du khách trong quá trình di chuyển và lưu trú.

1.1.2 Các loại hình du lịch

Hoạt động du lịch có thể phân nhóm theo các nhóm khác nhau tuỳ thuộc tiêu chí đưa ra. Hiện nay đa số các chuyên gia về du lịch Việt Nam phân chia các loại


hình du lịch theo các tiêu chí cơ bản dưới đây:

Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi:

-Du lịch quốc tế

- Du lịch nội địa

Căn cứ vào môi trường tài nguyên:

- Du lịch thiên nhiên

- Du lịch nhân văn

Căn cứ vào loại hình lưu trú

- Du lịch ở trong khách sạn

- Du lịch ở trong motel

- Du lịch ở trong nhà trọ

- Du lịch ở trong Làng du lịch

- Du lịch ở camping

Căn cứ vào thời gian chuyến đi

- Du lịch dài ngày

- Du lịch ngắn ngày

Căn cứ vào mục đích chuyến đi

- Du lịch tham quan

- Du lịch giải trí

- Du lịch nghỉ dưỡng

- Du lịch khám phá

- Du lịch thể thao

- Du lịch lễ hội

- Du lịch tôn giáo

- Du lịch nghiên cứu (học tập)

- Du lịch hội nghị

- Du lịch thể thao kết hợp

- Du lịch chữa bệnh

- Du lịch thăm thân


- Du lịch kinh doanh

- Du lịch mạo hiểm

Căn cứ vào đối tượng đi du lịch

- Du lịch thanh thiếu niên

- Du lịch dành cho những người cao tuổi

- Du lịch phụ nữ, gia đình...

Căn cứ vào phương tiện vận chuyển khách du lịch

- Du lịch bằng máy bay

- Du lịch bằng ô tô, xe máy

- Du lịch bằng tàu hoả

- Du lịch tàu biển

- Du lịch bằng thuyền, ghe…

Căn cứ vào cách thức tổ chức chuyến đi:

- Du lịch tập thể

- Du lịch cá nhân

- Du lịch gia đình

Căn cứ theo phương thức hợp đồng

- Du lịch trọn gói

- Du lịch từng phần

Căn cứ vào vị trí địa lý nơi đến du lịch:

- Du lịch nghỉ núi

- Du lịch nghỉ biển, sông hồ

- Du lịch đồng quê

- Du lịch thành phố…

Trong các chuyến đi du lịch người ta thường kết hợp một số loại hình du lịch với nhau [17, tr.2]

1.1.3 Vai trò của du lịch đến đời sống xã hội

1.1.3.1 Vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế

- Du lịch nội địa phát triển tốt sẽ củng cố sức khỏe cho nhân dân lao động và


do vậy góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội. Ngoài ra du lịch nội địa giúp cho việc sử dụng cơ sở vật chất kĩ thuật của du lịch quốc tế được hiệu quả hơn.

- Du lịch tham gia tích cực vào việc làm tăng thu nhập quốc dân thông qua ngoại tệ, đóng góp vai trò lớn trong việc cân bằng cán cân thanh toán quốc tế:

Nổi bật nhất là tình hình du lịch qua các năm 2011- đến nay.


Bảng 1.1: Tổng doanh thu từ khách du lịch quốc tế qua các năm 2010 – 5 tháng/2015


Chỉ tiêu

2010

2011

2012

2013

2014

5

tháng/2015

Số lượt khách du lịch quốc tế (lượt khách)

5.049.855

6.014.032

6.847.678

7.572.352

7.874.312

3.275.191

Tổng thu từ khách du lịch

(tỷ đồng)

96.000

130.000

160.000

200.000

230.000

161.701

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

Phát triển loại hình du lịch homestay tại đảo Bình Ba, thành phố Cam Ranh - 3

(Nguồn: Số liệu thống kê từ Tổng Cục Du Lịch Việt Nam)

Qua bảng thống kê cho thấy, số lượng khách du lịch quốc tế và tổng doanh thu từ khách du lịch ngày càng tăng. Từ 5.049.855 lượt khách năm 2010 cùng tổng thu là 96.000 tỷ đồng đã tăng lên 7.874.312 năm 2014 và tăng tổng doanh thu lên

230.000 sau 4 năm. Điều đó đã mang lại một thành tích ấn tượng cho ngành du lịch Việt Nam. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn cũng như nhiều biến cố tác động tiêu cực nhưng ngành du lịch vẫn duy trì sự tăng trưởng vượt bậc, tạo nên bước phát triển đột phá trong tương lai, giúp tăng thu nhập quốc dân qua ngoại tệ và đẩy mạnh cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.

Hiện nay, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 5 tháng năm 2015 ước đạt 3.275.191 lượt, giảm 12.6% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng dự báo sẽ tăng nhanh vào các tháng cao điểm du lịch sắp tới. Bên cạnh đó, theo Tổng Cục Du Lịch, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam vào năm 2015 chủ yếu như: Hàn Quốc tăng 40.1%, Mỹ tăng 29%, Canada tăng 25%, Italia tăng 67.3%, Thụy Điển


tăng 46.9%, Đan Mạch tăng 67.6%, Phần Lan tăng 73.9% ... Điều này cho thấy, có một số lượng lớn khách du lịch Bắc Âu và các nước khu vực Đông Á thích đi du lịch Việt Nam, tạo nên sự đa dạng về đối tượng khách quốc tế và đó là một bước chuyển mình cho du lịch để thu hút nhiều đối tượng khách quốc tế giúp tăng thu nhập cho quốc dân.

Du lịch là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao nhất: tính hiệu quả trong kinh doanh du lịch được thể hiện ở chỗ, du lịch là một mặt hàng “xuất khẩu tại chỗ” những hàng hóa công nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, đồ cổ phục chế, nông lâm sản… theo giá bán lẻ cao hơn do người bán sẽ không tốn kém nhiều chi phí giao hàng, vận chuyển, bảo hiểm, thuế xuất nhập khẩu, có khả năng thu hồi vốn nhanh và lãi cao do nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp cần khả năng thanh toán.

- Du lịch khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài: ngành du lịch Việt Nam ước tính đã thu được 190 đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn là

4.64 tỷ USD. [6, tr.3]

- Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới: chính du lịch giúp đưa các quốc gia gần gũi, mật thiết với nhau hơn và thực hiện nhiều dự án đầu tư và hợp tác với nước ngoài.

- Du lịch quốc tế phát triển tạo nên sự phát triển đường lối giao thông quốc tế: để phát triển du lịch thuận lợi và phục vụ số lượng lớn khách du lịch từ nhiều nước nên hệ thống giao thông ngày càng được xây dựng mang tầm quốc tế cũng giúp hỗ trợ các ngành khác thuận lợi trong việc vận chuyển.

- Ngành du lịch đã mang lại cho Việt Nam cơ hội to lớn trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp chuyển sang một nền kinh tế dựa vào dịch vụ: với nhiều cảnh đẹp, nhiều tài nguyên thiên nhiên vô giá và con người đã biết khai thác tại mỗi địa điểm vùng miền tạo nên nhiều điểm du lịch thú vị và hấp dẫn.

- Du lịch làm tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương phát triển du lịch, tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc dân và phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các vùng: ở các địa phương có làng nghề truyền thống, họ tận dụng


thế mạnh của mình để phát triển kinh tế bằng việc giới thiệu bán các sản phẩm thủ công. Không chỉ bán cho các du khách đến thăm quan mà đây còn là cơ hội tăng thu nhập địa phương bằng hình thức xuất khẩu.

- Du lịch phát triển thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo: nhiều khu vực khác cũng được hưởng lợi thông qua hỗ trợ các sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch như xây dựng, in ấn và xuất bản, sản xuất, bảo hiểm, vận tải, lưu trú, bán lẻ, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tài chính… Như vậy, có thể khái quát các vấn đề về chính sách du lịch bao trùm một chuỗi lớn các lĩnh vực và lợi ích. Giá trị gia tăng của ngành dịch vụ tăng cao hơn mức tăng GDP, đã góp phần nâng mức tăng trưởng chung của nền kinh tế (Theo công bố tại Hội nghị Bộ trưởng Du lịch G20 diễn ra ngày 16 tháng 5 năm 2012 tại Mexico, du lịch chiếm 9% thu nhập GDP thế giới)

- Tận dụng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành kinh tế khác: hoạt động du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ của một số ngành sản xuất, do đó phát triển du lịch sẽ mở mang và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó còn tận dụng nguồn lực, điều kiện vật chất kỹ thuật để bổ sung cho nhu cầu cần thiết nhưng chưa được đáp ứng của ngành. Ở những vùng phát triển du lịch, do nhu cầu đi lại, ăn uống, nghỉ ngơi vui chơi, thông tin liên lạc, vận chuyển nên mạng lưới giao thông, cầu cống, điện nước được hoàn thiện phục vụ nhu cầu du lịch ngày càng tăng.

1.1.3.2 Vai trò của du lịch đối với xã hội

- Du lịch góp phần giải quyết việc làm cho nhân dân địa phương. Du lịch với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, từ đó góp phần từng bước nâng cao tích lũy và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Theo Tổng Cục Du Lịch Việt Nam, hằng năm ngành du lịch tạo ra thêm

15.000 – 20.000 cho làm việc trực tiếp trong khách sạn, nhà hàng và các cơ sở dịch vụ du lịch. Bên cạnh đó, sự phát triển của du lịch góp phần ngăn cản sự di cư từ các vùng nông thôn đến các thành phố vì ngành du lịch giúp cho người dân ở vùng nông thôn kiếm được việc làm với thu nhập cao ngay trên quê hương của họ.

- Du lịch là phương tiện tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả. Không chỉ quảng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/08/2022